LỜI GIỚI THIỆU VỀ CHỦ THUYẾT LẬP HIẾN
Giáo sư/Luật sư Dương Như Nguyện,
Học giả Fulbright của Hoa Kỳ, 2011-12 và Chuyên viên Fulbright, 2013
Học giả Fulbright của Hoa Kỳ, 2011-12 và Chuyên viên Fulbright, 2013
0o0o0o0
Tóm
tắt:
NÓI VỀ THUYẾT LẬP HIẾN:
"Điểm quan trọng nhất của cơ chế "rule
of law" mà điển hình là nước Mỹ từ thuở lập quốc cho đến nay nằm ở thuyết
lập hiến. Nói nôm na, thuyết lập hiến có nghĩa là bản hiến pháp được dùng để hạn
chế quyền lực của chính phủ, và toàn thể cơ chế luật pháp của một quốc gia phải
bắt đầu và dựa trên hiến pháp. Bản hiến
pháp trở thành cái chìa khóa canh giữ chính phủ không được lạm quyền. Nếu không
có triết thuyết lập hiến ăn sâu vào văn hóa chính trị của một quốc gia và được
thi hành dựa trên dân trí cao, thì bản hiến pháp cũng chỉ là một dụng cụ của những
cá nhân chạy theo quyền lực và muốn áp đặt quyền lực ấy lên đám đông mà thôi,
vì họ sẽ dùng bản hiến pháp để ban bố quyền lực cho chính họ. Như thế bản hiến pháp trong tay những kẻ lạm dụng
quyền lực không còn là “rule of law” mà là “rule of men.” Các nhà lập hiến của Hoa Kỳ (ngay từ thời vua
Quang Trung ở VN) đã tạo ra bản hiến pháp Hoa Kỳ dựa trên thuyết lập hiến để
ngăn cản tệ trạng này khỏi phải xảy ra cho đất nước của họ. Đây là lý do bản hiến pháp Hoa Kỳ đã trường tồn
200 năm: Một cơ chế tòa án bảo hiến độc lập (cho dù các chánh án có nhiệm vụ
giám sát việc thi hành hiến pháp vẫn ăn lương từ tiền thuế của dân, do chính phủ
đưa cho), cộng thêm một chu trình khít khao để tạo dựng các tu chính án phản ảnh
xã hội và lòng dân đã bảo đảm sự trường tồn của bản hiến pháp danh tiếng
này."
Dương Như Nguyện 2013
A. GIỚI THIỆU
Nói
đến Bản Hiến pháp Hoa Kỳ thì phải nói đến thuyết lập hiến.
Sau
thảm trạng 9/11, ở nước Mỹ, các học giả trong ngành luật bắt đầu nhiều cuộc tranh cãi về các giá trị
của Bản Hiến pháp Hoa Kỳ và quyền lực của nhánh Hành pháp trong việc bảo vệ an
ninh quốc gia. Quyền bảo vệ an ninh quốc gia có cho phép các cơ quan Hành pháp
vi phạm vào quyền hiến pháp về tự do cá nhân của dân không, đến mức độ nào?
Ngay sau thảm trạng 9/11, Giáo Sư Đinh Việt là người được các học giả HK cho
rằng có công nhất trong việc sọan thảo bộ luật USA Patriot Act. Địa vị của GS
Việt quả là một niềm hãnh diện cho cộng đồng người Việt tỵ nạn ở Mỹ, tuy rằng
GS Việt đã bị chỉ trích rất nhiều bởi các học giả Mỹ phía cấp tiến vì bộ luật
này.
Những
điều kể trên là tấm màn phía sau những lý luận của nhiều học giả Mỹ về luật
hiến pháp, cho rằng cơ quan hành pháp của HK đã lạm dụng quyền hạn và đã vi
hiến vì xúc phạm đến quyền cá nhân của dân dưới bích chương “an ninh quốc
gia.” Những vấn đề này đã được bàn cãi từ 2001. Chính phủ Bush (Bush con,
không phải Bush cha) và GS Đinh Việt đã đi vào Hàn lâm luật học của Hoa Kỳ qua
sự tranh cãi này.
Mới đây lại có thêm vụ các chuyên
viên an ninh tiết lộ bí mật quốc phòng của Mỹ ra công chúng, cho rằng chính phủ
Mỹ đã vi hiến. Và họ bị truy tố.
Theo
tôi, thì những tranh cãi này không làm thay đổi những giá trị cao quý của Bản
Hiến pháp Hoa Kỳ. Tại sao? Có một số người Việt cho rằng, ở Mỹ thì cái hay Bản
Hiến pháp Hoa Kỳ là dĩ nhiên rồi, cần gì nói nữa? Cái nhìn này quả thật
là phiến diện. Muốn hiểu các giá trị cao quý của Bản Hiến pháp Hoa Kỳ, chúng ta
cần am hiểu chút ít về một triết thuyết mà các học giả Hoa Kỳ mô tả là
"Constitutionalism" (thuyết lập hiến). Đó mới chính là căn bản của
Bản Hiến pháp Hoa Kỳ, dù rằng từ ngữ “Constitutionalism” không hề xuất
hiện trong bản Hiến pháp danh tiếng của xứ sở này.
Người
Việt nên biết và nên nhớ: Ở VN, trong
giai đọan tranh tối tranh sáng (một khỏang trống chính trị) ở cuối giai đọan thực dân (1930-1954), đã có sự
sáng lập thuyết lập hiến với các tri’ thức VN hồi đó. Chưa đến đâu thì giới trí thức
đứng sau thuyết lập hiến đã bị tiêu diệt. Họ nghĩ gì? Làm gì? Và tại sao bị
tiêu diệt quá sớm như thế?
Bài
viết ngắn này không chủ trương nói về các dữ kiện lịch sử ấy. Đó là nhiệm vụ
tìm hiểu của người Việt và các sử gia. Bài viết này giải nghĩa thuyết lập hiến,
tiềm tàng trong Bản Hiến pháp Hoa Kỳ. Rất nhiều người Việt cho rằng Bản Hiến
pháp Hoa Kỳ lập ra quyền lực chính phủ HK trong một quốc gia dân chủ tự do và
như thế là đủ làm cho quốc gia này lớn mạnh. Không phải chỉ có thế. Muốn hiểu thấu đáo vấn
đề diễn giải Bản Hiến pháp Hoa Kỳ, cần phải hiểu thuyết lập hiến.
B. THẾ NÀO LÀ THUYẾT LẬP HIẾN?
Thuyết
lập hiến ở Hoa Kỳ, tiềm ẩn trong bản Hiến pháp, chủ yếu đưa ra ba đường
nét chính như sau:
1)
Điểm thứ nhất:
Bản
Hiến Pháp của một quốc gia đặt cơ chế chính phủ để điều hành quốc gia. Điều này
xuất phát từ thuyết "social contract" của JJ Rousseau. (Ở đây, người Việt cũng nên tìm hiểu
các thuyết đặt nền móng cho tự do dân chủ bởi các triết gia như Montesquieu, De
Tocqueville, v…v…, nẩy sinh ngay từ nước
Pháp. Thực dân Pháp cai trị người Việt trong thế kỷ 19 và 20, nhưng Pháp quốc cũng
là cái nôi tư tưởng chính trị của thế giới. Chế độ thực dân bóc lột xương máu
của dân Việt, mà lợi ích độc nhất là nối liền tinh thần yêu nước của người Việt
sau chế độ quân chủ và cho người Việt cơ hội tiếp cận với văn hóa Phục Hưng và
nền tư tưởng chính trị gọi là "dân chủ” của thế giới tự do. Theo thuyết “social
contract,” dân lập ra chính phủ như một sự trao quyền, tín nhiệm, vì dân đã
bằng lòng một khế ước với xã hội cho trật tự và lợi ích chung.
2)
Điểm thứ hai:
Theo
thuyết lập hiến, bản Hiến pháp có một mục đích vô cùng quan trọng trong khế ước
xã hội ấy: Đó là SỰ HẠN CHẾ QUYỀN LỰC CỦA CHÍNH PHỦ. Vâng, theo thuyết lập
hiến, bản hiến pháp là một cơ cấu HẠN CHẾ (restrictive power), chứ không phải
là cơ cấu tạo thành chính phủ với quyền lực vô hạn định (unlimited
empowerment).
Theo
thuyết lập hiến, bản hiến pháp như thế không phải chỉ là guồng máy đặt cơ sở
quyền lực cho chính phủ mà thôi, mà chính là tiếng nói của dân nhằm NGĂN CẢN VÀ
GIỚI HẠN quyền lực mà dân đã trao cho chính phủ theo "khế ước xã hội” ấy. Đây là một căn bản triết thuyết
chính trị vô cùng quan trọng. Bản hiến pháp là cái "gông” đặt lên chính
phủ, chứ không phải là cái "gông” đặt lên đầu lên cổ của dân. Nói khác đi,
bản hiến pháp nói lên quyền của dân (dịch chữ “rights), để cho dân xử dụng, dù
rằng bản hiến pháp cũng xếp đặt quyền lực của chính phủ (dịch chữ
“power”).
Đó
là căn bản của thuyết lập hiến.
3)
Điểm thứ ba:
Vì
thuyết lập hiến đưa ra quyền của dân, văn kiện ấy trở thành nề nếp cai tri quốc
gia, vì bản hiến pháp chính là khế ước xã hội do dân (hay đại diện dân) tạo
nên. Đó là một căn bản pháp định, pháp quyền, hay pháp trị (tùy theo ý nghĩa
của danh từ tiếng Việt, theo tôi chưa có sự thống nhất về cách dùng). Tiếng Anh gọi là cơ chế “rule of
law.” Bản hiến pháp tượng trưng cho pháp luật tối
cao của quốc gia và chính phủ phải đưa nền móng cai tri. dựa trên văn
bản ấy: Cai trị bằng những nguyên lý của
pháp luật (rule of law), thay vì nguyên lý của người cai trị (rule of man).
Tưởng cũng nên
nhắc đến, theo một
cuốn sử Việt lưu lại từ cổ văn, ngày xưa, thái thú Tô Định cũng cai trị Giao Chỉ bằng luật lệ, gọi là pháp định hay pháp trị,
nhưng chính Tô Định và các quan cai trị của nhà Hán đã đặt ra pháp luật của họ để cai trị Giao Chỉ.
Ngược lại, trong thuyết lập hiến như Bản Hiến pháp Hoa Kỳ ngày hôm nay, luật
pháp không đặt ra bởi người hành pháp, mà sự có mặt của luật pháp đến từ căn
bản pháp luật chứa đựng trong văn kiện gọi là Hiến pháp (cái khế ước xã hội đến
từ dân ký kết với nhau để tạo ra chính phủ và trao quyền cai trị cho chính
phủ). Như thế, pháp định hay pháp trị của Thái Thú Tô Định ngày xưa,
chính là “rule of men,” (pháp luật chính là sản phẩm và thủ thuật của kẻ cai
trị), chứ không phải là pháp định hay pháp trị của dân đặt ra (rule of law)
trong một khế ước xã hội làm nền tảng, tách biệt hẳn khỏi người cai trị, như
Bản Hiến pháp Hoa Kỳ và thuyết lập hiến của ngày nay.
4) Điểm thứ tư:
Để
thực sự có một cơ chế pháp định hay pháp trị dựa trên hiến pháp, thì phải có
một cơ quan độc lập bảo vệ và diễn giải bản hiến pháp (“cơ chế bảo
hiến”).
Trong "khế ước xã hội” của người Mỹ, các nhà lập hiến đặt trọng trách này
vào ngành tư pháp liên bang, được độc lập trong cơ chế chính phủ. Nếu không
đồng ý với các quyết định về việc áp dụng hay diễn giải hiến pháp của cơ quan
bảo hiến, thì dân Mỹ sẽ phải sửa đổi hiến pháp. Bản hiến pháp lập ra cơ chế sửa
đổi hiến pháp, một chu trình vô cùng khó khăn, nhưng đã thực hiện được ở Mỹ qua
các tu chính án. Đó là vì triết
thuyết lập hiến (một chủ thuyết có mục đích hạn chế quyền lực của chính phủ)
vốn đã bàng bạc, gắn chặt và trở thành nền móng cho văn Bản Hiến pháp Hoa Kỳ.
C. CÁC THÍ DỤ VỀ VIỆC ÁP DỤNG THUYẾT LẬP
HIẾN QUA BẢN HIẾN PHÁP HOA KỲ:
Sau
đây là vài thí dụ điển hình, lấy từ bản hiến pháp Hoa Kỳ để minh chứng thuyết
lập hiến:
1)
Sự phân chia quyền lực giữa tiểu bang và liên bang:
Bản Hiến pháp Hoa Kỳ ngăn cản quyền lực của chính phủ liên bang, để giữ quyền
tự trị cho các tiểu bang và đồng thời ngăn cản không cho chính phủ xâm phạm vào
QUYỀN LÀM NGƯỜI (tự do dân chủ) của dân. Bản hiến pháp Hoa Kỳ tạo nên những đạo
luật liên bang bảo vệ dân và các nhà làm luật HK gọi đó là "quyền làm dân”
(civil rights). Vậy trong cơ chế HK, quyền làm người chính là quyền làm
dân.
2)
Việc bảo vệ quyền làm dân/làm người, bằng cách ngăn cản quyền lực của chính
phủ: Trong cơ chế quyền làm người, làm dân, các đường nét
chính cuả Hiến pháp Hoa Kỳ là quyền tư hữu, tự do cá nhân, tự do tư tưởng và tự
do có đời sống riêng tư. Đây chính là
những khí giới hiến pháp đặt ra để hạn chế quyền chính phủ, tạo nên bản tuyên
ngôn dân quyền của Mỹ, thành hình qua các tu chính án (constitutional
amendments).
Sau
đây là bốn điểm chính về dân quyền ở Mỹ (có nhiều điểm khác nữa, tôi chỉ chọn 4
điểm này để giản dị hóa sự việc):
a) Thí
dụ thứ nhất: Đến từ Tu chính án số 1 -- Xác nhận
quyền tự do tư tưởng, hành động, hội họp (nếu không có khả năng hội họp thì tư
tưởng hành động để làm gì?)
Tu
chính án số 1 (First Amendment), bao gồm cái mà người VN dịch nôm na là ĐỆ TỨ
QUYỀN (dịch chữ FOURTH STATE (quyền đây là "quyền lực” như chính phủ (dịch
chữ “State”), chứ không phải quyền hạn (dịch chữ “rights”). Tu chính án
này cho báo chí và các cơ quan ngôn luận đến từ dân, gọi là QUYỀN LỰC THỨ 4
(sau khi BẢN HIẾN PHÁP đã PHÂN CHIA 3 NHÁNH QUYỀN LỰC CHO CHÍNH PHỦ: Hành pháp,
Tư pháp và Lập pháp (separation of powers).
b) Thí
dụ thứ hai: Đến từ Tu chính án thứ 4, 5 và 14, xác
nhận quyền tự do không bị chính phủ bắt bớ, sóat nhà, lấy khẩu cung, tịch thu
tài sản, kết tội, v... v... mà không có sự bảo vệ của luật pháp – cái gọi
là "thủ tục bắt bớ xét xử ” mà chính phủ bắt buộc phải theo trong hệ thống
hình luật (due process of law; criminal procedure).
c)
Thí dụ thứ ba: Đến từ Tu chính án thứ 5, xác nhận quyền tự
do bình đẳng (không bị kỳ thị, thiên vị, trước pháp luật v...v... (equal
protection of law).
d) Thí
dụ thứ tư: Quyền tự do có đời sống riêng tư để quyết định những việc
riêng cho hạnh phúc cá nhân, chính phủ không được tham dự vào. Điểm đặc biệt là
quyền này không hề được viết ra trong hiến pháp, nhưng đã được cơ quan bảo hiến
(Tối Cao Pháp Viện liên bang HK) công nhận, bằng án lệ. (HK cũng như Anh Quốc
theo thể chế "thông luật” thành ra các án lệ của thẩm phán trở thành văn
bản luật).
Bốn
thí dụ này nói lên bốn điểm chính vô cùng quan trọng của Hiến pháp Hoa Kỳ về tự
do của người dân, đã trở thành một phần rất tự nhiên trong đời sống hàng ngày
của người Mỹ. Bốn điểm chính
đó tiêu biểu cách hạn chế quyền lực của chính phủ và đó là tư duy chính của
thuyết lập hiến. Tôi có thể gọi đó là một chủ thuyết "hạn chế quyền chính
phủ,” chứ không phải là một chủ thuyết ban bố quyền cho chính phủ, để chính phủ
có thể dựa vào nhằm tước đi quyền tự do bình đẳng của con người. Quyền tự do bình đẳng ấy là quyền
hiển nhiên, tự nhiên của nhân sinh, đến từ tư cách làm người, ngay khi được
sinh ra (birth rights; natural rights). Bản hiến
pháp chỉ là phương cách để hạn chế chính phủ nhằm mục đích bảo vệ những quyền
cá nhân căn bản mà Thượng đế đã ban cho ấy.
Nói
tóm lại, rất nhiều người Việt không hiểu rằng thuyết lập hiến ở HK đến từ bản
hiến pháp và củng cố cho bản hiến pháp. Thuyết ấy có tác dụng dùng bản hiến
pháp để CHO dân ĐƯỢC "cai trị" chính phủ, chứ không phải để giúp
chính phủ áp lực hay cai tri dân, dù rằng chính bản hiến pháp là cơ chế lập ra
chính phủ. Bản hiến pháp là chứng cớ việc
dân đã TRAO QUYỀN CHO CHÍNH PHỦ theo "khế ước xã hội” của Rousseau.
Theo Rousseau, thì "chính phủ ” chỉ là kết quả của bản khế ước ấy giữa dân
với dân, dân tạo dựng ra chính phủ, khi dân muốn họp lại để sống hòa bình, tạo thành xã hội nhân
văn, nhân bản và trật tự.
D. TỔNG KẾT:
Trước
đây, sau gần bốn thập niên trong nghề luật (và giáo dục), cá nhân tôi, Dương
Như Nguyện, chưa bao giờ viết bài bằng tiếng Việt về thuyết lập hiến, ngọai trừ
lần này. Chương trình Fulbright của
chính phủ HK cho tôi cơ hội viết về hiến pháp Hoa Kỳ một cách ngắn, gọn và tóm
tắt, với tư thế học giả. Bài viết bằng tiếng Anh cho
người ngoại quốc (outside America) và sinh viên Việt Nam đọc để tìm hiểu.
Lý do
tôi viết bài trên đây về thuyết lập hiến là
vì đã có bản dịch bài tôi viết về Hiến pháp Hoa Kỳ, được lưu hành trên mạng
lưới qua một Website tiếng Việt do Giáo sư tóan học Ngô Bảo Châu thực
hiện. Bản dịch ấy không phải do tôi viết, mà chỉ là bản dịch của bài
tiếng Anh tôi viết trong tư cách là học giả Fulbright của Hoa Kỳ. Tôi không có thì giờ để kiểm chứng
bản dịch hay dùng chính văn phong Việt ngữ của mình trong một đề tài chuyên môn
phức tạp. Nếu sinh viên Việt Nam đọc bản
dịch ấy, mà không hiểu rõ căn bản của thuyết lập hiến, thì tôi e rằng tôi có
đưa ra các chi tiết về Bản Hiến pháp Hoa Kỳ bao nhiêu cũng vẫn chưa giúp ích
được các em.
Để
hiểu cơ chế triết thuyết của Bản Hiến pháp Hoa Kỳ, cần phải hiểu vài nguyên lý
khá giản dị của thuyết lập hiến. Giản
dị trong tư tưởng, nhưng áp dụng luôn luôn là một thách thức cho thế giới tự do
ngày nay. Và vì thế, từ đó dân chủ ở Mỹ giống như bầu khí quyển, có thì rất dễ
quên đi, mà không có thì mới biết quý. Nếu
không biết mình thiếu và không có sự so sánh, thì sẽ không biết thế nào là niềm
sảng khóai khi được thở một bầu khí quyển trong lành.
Nói
rằng Bản Hiến pháp Hoa Kỳ hay, vì người Mỹ có tự do dân chủ, mà không hiểu căn
nguyên triết thuyết tại sao, thì chưa đủ.
Những
tư tưởng và giá trị của thuyết lập hiến và bản hiến pháp HK, nếu phổ biến cho
người Việt (nhất là sinh viên ngòai nước Mỹ không sống trong lòng văn hóa chính
trị của Mỹ) theo tôi sẽ là điều rất tốt.
DƯƠNG NHƯ NGUYỆN
2/2013
Sau đây là
LINK có bản tiếng Anh về hiến pháp HK của GS Wendy Duong. Bản dịch tiếng Việt
lấy từ Website do GS Ngô Bảo Châu và các cộng tác viên của ông chủ trương.
(Website của GS Ngô Bảo Châu, et al, đăng tải 2 bản hiến pháp của Việt Nam Cộng
Hòa (dựa trên tam quyền phân lập) và một số bình luận tóm tắt của
các học giả về các bản hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới, ngòai nước
Mỹ.)
Bài nguyên tác tiếng Anh: www.wendynicolennduong.blogspot.com
Bài nguyên tác tiếng Anh: www.wendynicolennduong.blogspot.com
Bản dịch tiếng Việt:
Bản dịch
này có tác dụng chuyển ngữ và chuyển ý.
LS Dương
Như Nguyện không phải là người dịch và không chịu trách nhiệm về bản dịch này.
0o0o0o0
TỔNG QUAN VỀ BẢN
HIẾN PHÁP HOA KỲ*
*Nguyên tác viết bằng tiếng Anh, của Giáo sư/Luật sư Dương Như Nguyện,
Học giả Fulbright của Hoa Kỳ, 2011-12 và Chuyên viên Fulbright, 2013**
Học giả Fulbright của Hoa Kỳ, 2011-12 và Chuyên viên Fulbright, 2013**
** Cử nhân Truyền thông Đại học Southern Illinois, Tiến sĩ Luật học Đại học Houston, Thạc sĩ Luật Đại học Harvard. Nguyên giáo sư thực thụ Trường Luật, Đại học Denver, Hoa Kỳ. Bài viết này được tài trợ bởi chương trình Fulbright trực thuộc phân vụ văn hóa của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.
I. Giới
thiệu
Hiến pháp Hoa kỳ được soạn thảo bởi học giả-chính trị gia James
Madison[1] vào
năm 1787. Bản Hiến pháp này gồm bảy Điều và 27 Tu chính án, là một văn kiện sống
còn, tồn tại song song
với lịch sử của nước Mỹ và được áp dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày.
Hiến pháp Hoa Kỳ đã được nghiên cứu, trích dẫn, và được sử dụng như
một mô hình cho các Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới. Đây là một
văn kiện được xây dựng từ bốn lĩnh vực chủ chốt của nước Mỹ: pháp luật, lịch
sử, chính phủ, và văn hóa:
1)
Tài liệu luật học: Hiến
pháp là pháp luật tối cao của đất nước[2] và
được hình thành như một quy định cho xã hội: quy định đó bắt buộc các
cá nhân và chính phủ phải tuân theo quyền lực tối cao nhất của pháp luật.
2)
Tài liệu lịch sử: Hiến
pháp chính là tác phẩm nghiên cứu học thuật của những người sáng lập nên
nước Mỹ, đại diện cho các tiểu bang, và, do đó, đã tồn tại hơn
200 năm trong lịch sử Hoa kỳ[3];
3)
Tài liệu chính tri và triết học: Hiến
pháp thiết lập cấu trúc cơ bản của chính phủ Mỹ và
đưa ra triết lý chính trị: chính phủ Mỹ được xây dựng trên mô
hình cộng hòa, đại diện cho nhân dân theo phương thức ”liên
bang,” dựa trên nguyên tắc “phân quyền” để kiểm soát và quân bằng hóa
ba cơ chế tạo nên nhà cầm quyền nước Mỹ. Chính phủ Mỹ kết hợp (a) ”thể
chế liên bang” (nghĩa là, phân chia theo chiều dọc quyền lực của
chính phủ quốc gia và chủ quyền nhà nước của các tiểu bang)[4], với
(b) “thể chế phân quyền” (tức là, phân chia theo chiều ngang quyền lực giữa ba
ngành của chính phủ: lập pháp, hành pháp và tư pháp).
4)
Tài liệu văn hóa và xã hội:
Hiến pháp thể hiện nét đặc trưng cho văn hóa Mỹ, một xã hội mà
người dân tự quyết định cho chính mình. Theo những người sáng lập nước
Mỹ, thì Hiến pháp tiêu biểu cho tiếng nói của người dân nhằm hạn chế quyền
lực của chính phủ và khẳng định quyền tự do cá nhân
cho dân (đây là ý chính của 10 Tu chính án đầu tiên thêm vào Hiến
pháp, được gọi là “Tuyên ngôn Nhân quyền”, cũng là tác phẩm của
Madison). Những lời vào đề Hiến pháp được người Mỹ luôn ghi nhớ: ”Chúng tôi, nhân
dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, nỗ lực đoàn kết bên nhau để tạo nên
một Liên bang thống nhất, thiết lập công lý, đảm bảo an ninh trong nước
và sự phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong liên bang, giữ vững
nền tự do cho bản thân và các thế hệ mai sau, quyết định xây dựng và ban hành bản
Hiến pháp này cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.”
Vì vậy, để hiểu Hiến
pháp Mỹ, người ta phải hiểu khái niệm:
(i)
phân quyền
lực (mối quan hệ giữa ba nhánh của chính phủ),
(ii)
chủ thuyết liên
bang (mối quan hệ giữa chính phủ quốc gia trung ương và chính
phủ các tiểu bang),
(iii)
cơ chế toà án
bảo hiến ( cơ chế mà qua đó Hiến pháp được hiểu, áp
dụng và tôn trọng), và
(iv)
Bản Tuyên ngôn
Quyền (nói lên mối quan hệ giữa chính phủ và cá nhân).
II. Tóm
tắt 7 Điều và 27 Tu chính án
Tóm tắt
các điều khoản của Hiến pháp:
- Điều I thiết
lập nhánh lập pháp liên bang.
- Điều II thiết lập nhánh
hành pháp liên bang.
- Điều III thiết
lập nhánh tư pháp liên bang.
- Điều IV
gồm “Khoản tin tưởng và tôn trọng tuyệt đối,” bắt buộc các tiểu bang phải tin
tưởng và áp dụng tuyệt đối các điều luật, hồ sơ và thủ tục tố tụng lẫn nhau. Điều IV cũng
quy định “Khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ,” có nghĩa là công dân của mỗi
tiểu bang sẽ được hưởng mọi đặc quyền phúc lợi và các đặc quyền có tác dụng miễn
trừ trước pháp luật y hệt như công dân của các tiểu bang khác.[5]
Điều IV áp dụng vào việc bảo đảm không có sự phân biệt kỳ thị trong cách
các tiểu bang đối xử với các công dân, từ tiểu bang này đến tiểu bang khác.[6]
- Điều V đặt
nền móng cho việc sửa đổi Hiến pháp.
- Điều VI tạo
nên quy chế tối cao cho Hiến pháp (cũng như các hiệp ước quốc tế
và các đạo luật liên bang, được ký kết hoặc ban hành theo như Hiến
pháp đã quy định).
- Điều VII yêu
cầu sự phê chuẩn của chín tiểu bang cho việc thành lập Hiến
pháp. (Lúc đó liên bang Hoa kỳ chỉ có chín tiểu bang.)
Tóm tắt
cơ chế sửa đổi Hiến pháp:
Cơ chế đưa
ra tu chính án được nêu trong Điều V, với mục đích duy trì để
cho Hiến pháp được tồn tại lâu dài.
Mỗi
Tu chính án của Hiến pháp phải được đề xuất rồi thông qua bởi hai phần ba thành
viên của cả hai viện, Thượng viện và Hạ viện, hoặc bởi hai phần
ba các tiểu bang, và sau đó phải được phê chuẩn bởi ba phần
tư các tiểu bang. Như vậy quá trình Tu chính án gồm hai bước:
• Bước
thứ nhất: các tu chính án được đề xuất từ hai phần ba
nghị sĩ trong cả hai viện của Quốc hội, hoặc bằng hội
nghị đặc biệt của các cơ quan lập pháp của hai phần ba các
tiểu bang.
• Bước
thứ hai: các tu chính án phải được phê chuẩn bởi các
cơ quan lập pháp của ba phần tư các bang, hoặc thể hiện trong hội
nghị của các bang đó.[7] Hiến
pháp không quy định cho Tổng thống có vai trò gì cả
trong quá trình đưa ra tu chính án.
Tóm tắt các tu chính án:
27 tu
chính án dưới đây, không chỉ phản ánh sự cải tiến trong các quy định của
Hiến pháp, mà còn thể hiện tíến trình lịch sử của nước Mỹ. Ví dụ, một số tu
chính án được đưa ra sau cuộc Nội chiến Mỹ về vấn đề nô lệ tại
các bang miền nam.
Tu
chính án thứ nhất đảm bảo tự do cá
nhân về vấn đề tôn giáo, ngôn luận, báo chí, hội họp trong
hòa bình, và quyền được tự do “kiến nghị lên chính phủ để
khắc phục những bất bình của dân.” Các quyền tự do của Tu chính án thứ
nhất được bảo đảm, tuy nhiên, không phải là tuyệt đối[8]. Tu
chính án thứ nhất được tóm tắt như sau:
(i)
điều khoản ”Tự do ngôn luận” cho cá nhân và báo
chí, nhằm bảo vệ những phát biểu bằng ngôn ngữ (và cả những phát biểu phi
ngôn ngữ, qua hành động thay vì lời nói).
(ii) điều
khoản “Thiết lập” (đúng hơn nên gọi là ”khoản không thành
lập”), để quy định việc thiết lập Hoa Kỳ là một chính
phủ thế tục, tách riêng khỏi tôn giáo; và
(iii)
điều khoản ”Miễn can thiệp” có ý nghĩa ngăn cấm sự can thiệp của chính phủ vào
vấn đề tự do tôn giáo. [9]
Tu
chính án thứ 2 đảm bảo quyền của dân chúng được
phép mang vũ khí, và điều này được coi như tạo nền tảng cho lực
lượng dân quân.[10]
Tu
chính án thứ 3 đảm bảo quyền của dân chúng
không bị bắt buộc phải chứa binh sĩ ở lại trong
tư gia khi không có sự đồng ý của gia chủ. Đây là điều Hiến pháp
quy định cấm chính phủ không được biến nhà dân thành đồn lính để
dân thành quân đội nhằm phục vụ chính phủ mà không cần lệnh động viên, thời chiến
hay thời bình cũng vậy.
Tu
chính án thứ 4 đảm bảo tài sản và tính mạng
của người dân sẽ không bị tịch thu hay bắt bớ, không bị bắt giữ hay tịch
thu tài sản mà không có lệnh của tòa dựa trên lý do chính đáng, khả thi.
Những lệnh tòa ấy phải ”mô tả chi tiết nơi bị lục lọi
tìm kiếm, cùng với cá nhân sẽ bị bắt giữ hay các thứ bị tịch thu.”
Tu
chính án thứ 5 đảm bảo quyền của người bị cáo buộc
là tội phạm trước pháp luật:
- Việc
xét xử một cá nhân bị buộc tội phải được đưa ra trước một bồi thẩm
đoàn;
- Người
dân được bảo vệ không phải chịu cái gọi là “song án hay song thức
nguy cơ” trong quá trình luận tội,” có nghĩa rằng họ không thể bị
truy tố cùng một tội đến những hai lần;
- Người
dân không bị bắt buộc làm nhân chứng chống lại chính mình, và do
đó có thể giữ im lặng trong suốt quá trình tố tụng hình sự (quyền này thường
được dân Mỹ mô tả là quyền được dựa trên “Điều thứ năm” để khỏi nói năng gì cả
với cảnh sát khi bị bắt bớ).
- Nhà
nước không thể tước đi cuộc sống của một người, sự tự
do hoặc tài sản của họ mà không theo đúng quy định của pháp luật (Điều
khoản ”Tiến trình xét xử”).
Tu
chính án thứ 5 cũng có ”điều khoản về trưng thu tài sản
của dân” cấm chính phủ không được lấy tài sản tư nhân ngoài mục đích công
cộng chính đáng mà không có bồi thường đúng đắn.[11] Điều
khoản Hiến pháp về trưng thu được áp dụng mỗi khi chính phủ lấy tài sản của
dân, toàn phần hay chỉ một phần, ngắn hạn hay vĩnh viễn, tài sản hữu
hình hoặc trừu tượng thì cũng thế, tất cả đều được bảo vệ.[12]
Tu
chính án thứ 6 đảm bảo quyền của bị cáo được xét
xử công khai, công bằng và nhanh chóng trước một bồi thẩm đoàn công
minh, cũng như quyền được biết lý do và tính chất việc truy tố, quyền
được đối chấp người tố cáo và đưa ra nhân chứng, và quyền được
tư vấn bởi một luật sư có khả năng.
Tu
chính án thứ 7 đảm bảo quyền được bồi thẩm đoàn xét
xử trong một phiên tòa dân sự.
Tu
chính án thứ 8 cấm việc áp dụng một số tiền
bảo lãnh quá đắt cho bị cáo được tại ngoại hầu tra, hoặc một số tiền phạt quá lớn
vượt mức hợp lý, hoặc hình phạt độc ác bất nhân “bất bình thường, dã man, tàn bạo.” Nói
khác đi, hình phạt phải cân xứng với tội danh (đây là Điều khoản cấm
“xử phạt dã man và bất thường”).[13]
Tu
chính án thứ 9 đảm bảo rằng việc Hiến pháp liệt
kê các quyền cá nhân không ảnh hưởng gì đến các quyền sẵn có khác của
dân. Do đó, Hiến pháp được coi như mẹ đẻ của pháp luật, không thể
đem ra làm công cụ khống chế người dân, hay công cụ hạn chế các quyền sẵn có của
dân (các quyền tạo ra bởi luật tự nhiên hay thông luật có sẵn từ trước).
Tu
chính án thứ 10 đảm bảo rằng Hiến pháp không thay
thế quyền hạn sẵn có của “các tiểu bang hay người dân.” Vì vậy, Hiến
pháp không cấm các tiểu bang soạn thảo luật của riêng mình, nếu địa hạt
ấy không bị Hiến pháp cấm đoán. Như thế, Tu chính án thứ 10 chứng
minh cho chủ thuyết liên bang: việc phân chia quyền lực giữa tiểu bang và
liên bang, để dành lại cho các tiểu bang toàn thể chủ quyền nhà
nước, trong tất cả các địa hạt mà Hiến pháp không ủy quyền cho chính
phủ liên bang.
Tu
chính án thứ 11 không cho phép công dân của
một tiểu bang khởi kiện một tiểu bang khác bằng cách
khởi tố ở tòa án liên bang.[14]
Tu
chính án thứ 12 thiết lập các Đoàn cử tri
thay mặt dân dồn lá phiếu cho Tổng Thống và Phó Tổng thống.
Tu
chính án thứ 13 bãi bỏ chế
độ nô lệ (đây là điều khoản Hiến pháp độc nhất được áp dụng cho chính quyền
cũng như tư nhân).
Tu
chính án thứ 14 bao gồm ”điều khoản bảo vệ bình
đẳ?ng” và “điều khoản bảo đảm tiến
trình xét xử pháp luật” áp dụng vào các tiểu bang.[15] Tu
chính án thứ 14 cũng quy định tất cả các đặc quyền phúc lợi và miễn
trừ bất khả xâm phạm của công dân Hoa Kỳ áp dụng vào các tiểu
bang (“Điều khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ”).[16]
Do đó, Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã giải trình Tu
chính án thứ 14 để mở rộng sự bảo vệ của Tuyên ngôn về quyền tới
tất cả các cấp nhà nước tiểu bang. Đặc biệt, Tòa án Tối cao
liên bang Hoa Kỳ đã sử dụng Điều khoản “Tiến trình Xét xử” để làm cơ sở
cho quyền tự do đời tư được trở thành quyền hiến định, bảo đảm chống lại mọi
can thiệp hoặc điều tiết của luật lệ tiểu bang.[17]
Tu
chính án thứ 15 đảm bảo quyền được bỏ
phiếu của tất cả các công dân (bao gồm cả những người “công dân mới được
trả tự do (trước kia vẫn còn là nô lệ)” sau cuộc nội chiến).
(Các
tu chính án thứ 13, 14, và 15 được gọi là ”các tu chính án
sau nội chiến.”)
Tu
chính án thứ 16 thiết lập quyền đánh thuế của Quốc
hội.
Tu
chính án thứ 17 thiết lập quy
trình cho các cuộc bầu cử trực tiếp nhằm chọn lựa Thượng
nghị sĩ Mỹ.
Tu
chính án thứ 18 cấm chất rượu cồn (sau đó đã được bãi
bỏ để hợp pháp hóa việc bán và dùng rượu trong Tu chính án thứ 21.)
Tu
chính án thứ 19 thiết lập quyền phụ nữ được
bầu cử.
Tu
chính án thứ 20 thiết lập bổ xung các điều
khoản thời hạn tại chức của Tổng thống, Phó Tổng thống, và Quốc hội.
Tu
chính án thứ 21 bãi bỏ tu chính án thứ 18 và hợp
pháp hóa việc sử dụng và mua bán rượu.
Tu
chính án thứ 22 quy định việc giới hạn thời gian tại chức của
Tổng thống.
Tu
chính án thứ 23 thiết lập số người đại diện
cử tri ở Washington, DC cho cuộc bầu cử Tổng thống. Tu
chính án này cho phép Đặc khu thủ đô Columbia có ba phiếu đại diện cử
tri.
Tu
chính án thứ 24 loại bỏ thuế thân (đóng thuế để
được đi bầu cử) nhằm tạo dựng sự bình đẳng của công dân trong quyền bầu cử
sau cuộc nội chiến ở Mỹ.
Tu
chính án thứ 25 thiết lập các quy tắc
cho sự kế nhiệm Tổng thống, được áp dụng trong trường hợp Tổng
thống bị bãi nhiệm, chết, từ chức, hoặc thương tật tạm thời hay
vĩnh viễn.
Tu
chính án thứ 26 quy định việc giảm tuổi bầu cử xuống
còn 18 tuổi (kết quả của luật động viên trong thời gian chiến
tranh tại Việt Nam).
Tu
chính án thứ 27 quy định thay đổi lương bổng của Quốc hội: Quốc
hội có thể bỏ phiếu để tăng lương cho các thành viên của chính mình,
nhưng việc tăng lương sẽ chỉ có hiệu lực sau cuộc
bầu cử (tức là việc tăng lương sẽ không có hiệu lực cho đến
sau khi các nghị sỹ đã hết nhiệm kỳ).
III. Diễn
giải Hiến pháp Hoa Kỳ và Bộ máy Chính phủ Liên Bang
A. Chủ
thuyết phân chia quyền lực
1. Quốc
hội Mỹ bao gồm Hạ Nghị viện và Thượng Nghị viện. Một
Viện không thể hoạt động đơn phương mà không có sự kết
hợp dựa theo nguyên tắc lưỡng viện. Cả hai cơ quan lập
pháp này phải đồng ý giải tán thì mới hết hạn làm việc được (ví dụ, một Viện không thể
ngừng hoạt động trong khi Viện kia vẫn đang làm việc). Người phát
ngôn của Hạ viện là viên chức hàng đầu của Hạ viện.
Hạ viện có 435 thành viên được bầu dựa trên dân số.
Thượng viện có 100 thành viên (số thượng nghị sĩ đại diện cho mỗi tiểu bang là
hai người, được lấy từ 50 bang, không lệ thuộc vào dân số). Phó Tổng thống
Mỹ là Chủ tịch Thượng viện.[18] Mọi
dự luật về tăng thuế đều phải do Hạ viện khởi xướng.
Ngoài
việc soạn thảo luật, Hiến pháp còn quy định quyền hạn cụ thể cho
Quốc hội: ví dụ, quyền tạo ra luật bản quyền tác giả (“Điều khoản Bản
quyền”); quyền gây quỹ, chi tiêu, và phát hành tiền tệ; quyền tuyên chiến
và đưa ra các quy định đối với Bộ binh và Hải quân; và quyền điều chỉnh
giao dịch thương mại với nước ngoài và giữa những tiểu bang với nhau
(Điều khoản Thương mại xuyên bang).
Điều I chứa
đựng “Điều khoản cần thiết và thích hợp” (đôi khi còn được gọi
là ”Điều khoản cân đối”), cho phép Quốc hội ”soạn thảo tất cả các điều luật được
cho là cần thiết và thích hợp để thực hiện… tất cả
các quyền hạn mà Hiến pháp đã ban cho chính phủ liên bang.[19] Còn
có “Điều khoản ngôn luận và tranh luận“ cho phép các thành viên của Quốc
hội làm nhiệm vụ lập pháp của họ “mà không bị thẩm vấn
bất kỳ tại đâu”. Điều khoản này có hiệu quả tạo ra tính miễn
trừ tuyệt đối cho các nghị sĩ không bị thưa kiện dù là dân sự hoặc
hình sự. Ứng viên phải đủ 25 tuổi nếu muốn được bầu vào Hạ viện và ít nhất là
30 tuổi để được ứng cử vào Thượng viện.
2. Tổng
thống có vai trò rất quan trọng bởi vai trò của nước Mỹ là
đại cường quốc trong các vấn đề toàn cầu – nhà lãnh đạo nước Mỹ thường
được coi là một trong những nhà lãnh đạo thế giới. Tổng thống không
chỉ nắm quyền lực mà cũng phải thi hành công vụ hành pháp (Điều II, Khoản 3).
Ứng cử viên Tổng thống ít nhất phải đủ 35 tuổi và không thể là một cá
nhân sinh đẻ ở ngoại quốc rồi trở thành công dân Mỹ về sau.
Hiến
pháp cũng nêu lên và hạn định vai trò và quyền lực
của Tổng thống. Ví dụ, Tổng thống là Tổng tư lệnh quân đội, làm việc
với Quốc hội trong việc soạn thảo luật, có trọng trách ký kết
các hiệp ước quốc tế (nếu có biểu quyết đồng ý của hai phần
ba thượng nghị sĩ) và bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án Tối
cao cùng các Đại sứ theo “sự ưng thuận và lời khuyên của Thượng
viện.” Ngoài những quyền hạn được quy định trong Hiến pháp, Tổng thống còn
có quyền lực tiềm ẩn về đối ngoại, vì được xem là nguyên thủ quốc gia, mặc dù
quyền đối ngoại này không thể hiện rõ bằng văn bản trong Hiến pháp.[20] Hơn nữa,
cho dù Hiến pháp trao cho Quốc hội quyền”tuyên chiến,” Tổng
thống cũng có quyền “tham gia cuộc chiến” để đẩy lùi các cuộc
xâm lược nhằm phòng thủ và bảo vệ nước Mỹ trong thẩm quyển của môt vị
Tổng Tư lệnh quân đội.[21]
Khi
người Mỹ bỏ phiếu cho Tổng thống của họ, thực sự họ chỉ bỏ phiếu cho
một Đại cử tri đoàn, tức là một nhóm nhỏ người dân đến từ các bang, được
tham gia bỏ phiếu chính thức cho Tổng thống
và Phó Tổng thống cho cả nước trong vai trò đại biểu của cử
tri. Hệ thống bầu cử qua đại biểu tiểu bang này (gọi là cơ chế
đầu phiếu qua hình thức “Đại cử tri”) được dùng và coi như là quy luật đảm bảo quyền
biểu quyết của các tiểu bang ít dân cư.[22]
Tổng thống hoàn
toàn được miễn trừ (không bị thưa kiện đòi bồi thường thiệt hại) trong các
hoạt động hành pháp khi tại chức, trừ phi Tổng thống bị giải nhiệm vì các hoạt
động có tính cách lợi dụng công vụ, tham nhũng hay lạm dụng công quyền. Tuy
nhiên, Tổng thống vẫn có thể bị kiện vì những hành vi xảy ra trước khi
đắc cử, hoặc các hành vi không liên quan đến công vụ của Tổng thống.
Tổng thống chỉ có thể phục vụ hai nhiệm kỳ liên tiếp,
tổng cộng là tám năm. Tổng thống chỉ có thể sẽ bị bãi nhiệm nếu bị
Hạ viện luận tội truy tố và sau đó Thượng viện biểu quyết với
hai phần ba số phiếu đồng ý bãi nhiệm Tổng thống của các thượng nghị
sĩ.
3. Tư pháp: Tòa án Tối
cao liên bang Hoa Kỳ là tòa án độc nhất được trực tiếp thành lập
bởi Hiến pháp. Tuy nhiên, Điều III của Hiến
pháp cũng cho phép Quốc hội được lập ra đạo luật nhằm
“phong chức và thiết lập” các tòa án liên bang cấp dưới (ngay
trong năm 1789, sau khi Hiến pháp đã ra đời, Quốc hội lập tức
ban hành Đạo luật Tư pháp và thiết lập nên ngành tư
pháp liên bang). Vì vậy, Tòa án liên bang và Tòa
án tiểu bang cùng tồn tại trong một thể chế mà không bên nào gây xung khắc cho
bên nào.[23] Chủ
thuyết “bảo hiến bằng tư pháp” của nước Mỹ vì thế được ra đời, gán cho
Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ thẩm quyền giải thích và thi
hành Hiến pháp – đó là cơ quan chính phủ độc nhất có thẩm quyền quyết định tối
hậu về vấn đề liệu hành động của chính phủ có hợp hiến hay không.
Vấn đề
kiểm soát và đối trọng quyền lực nhà nước: Việc phân chia
quyền lực theo thuyết “kiểm soát và đối trọng quyền lực lẫn nhau” trong
triết lý luật học Hoa Kỳ không phải chỉ nằm ở cách Hiến pháp phân quyền cho ba
nhánh, mà còn ở việc Hiến pháp đòi hỏi ba nhánh phải làm việc với
nhau: ba nhánh ”kết hợp và trao đổi lẫn nhau” để đảm bảo rằng mỗi
nhánh luôn chịu sự kiểm soát của nhánh khác. Sau đây là bốn ví dụ điển
hình:
1) Một
dự luật chỉ có thể trở thành luật nếu Quốc hội thông qua (với hơn 50% số
phiếu). Tuy nhiên, Tổng thống phải ký vào dự luật để
ban hành luật. Vì thế, Tổng thống có quyền “phủ quyết” bằng cách
không ký tên. Trong trường hợp này, Quốc hội phải xem xét lại dự
luật, và chỉ có thể vượt quyền phủ quyết của Tổng thống với hai phần
ba số phiếu của các thành viên Quốc hội. Việc biểu quyết “vượt trên
đa số phiếu” của Quốc hội này là để đảm bảo rằng Quốc hội xem
xét lại các dự luật một cách thật chặt chẽ, nếu muốn bác quyền phủ quyết của Tổng thống.
2) Thẩm
phán Tòa án tối cao liên bang Hoa kỳ chịu trách nhiệm cuối
cùng cho việc kiểm tra tính hợp hiến của cả
luật liên bang lẫn luật tiểu bang. Hiến pháp quy định rằng họ được bổ
nhiệm cả đời, được tại chức cho đến ngày qua đời. Điều này nhằm duy trì tính
độc lập cho công việc của họ, nhưng họ lại phải được Tổng
thống đương nhiệm đề cử và sau đó phải được sự chấp thuận của Thượng
viện.
3)
Trong trường hợp Tòa án Tối cao liên bang Hoa kỳ tuyên bố rằng
một hành vi nào đó của chính phủ là vi hiến, thì Quốc hội và các tiểu
bang – qua các đại biểu cho nhân dân – vẫn có thể lấy trưng cầu dân
ý để sửa đổi Hiến pháp nhằm hủy bỏ án lệ của tòa án tối cao liên bang
theo ý của nhân dân (qua các đại biểu).[24]
4) Mặc
dù Tòa án tối cao liên bang đứng độc lập, và Hiến pháp thiết lập thẩm quyền của Tòa án
này, nhưng Hiến pháp cũng cho phép Quốc hội quyền soạn thảo luật tạo
nên các trường hợp ngoại lệ để sửa đổi tài phán thẩm quyền của Tòa
án liên bang tối cao. Như vậy Hiến pháp cho Quốc hội nắm quyền kiểm
soát vấn đề tài phán thẩm quyền của các tòa án liên bang.
B. Thể
chế liên bang
Điều
VI, gọi là “Điều khoản quyền tối cao” đưa ra các nguyên lý cơ bản của
thể chế liên bang Hoa Kỳ: Hiến pháp, luật liên
bang, và các hiệp ước quốc tế được thực hiện theo quy định
của luật liên bang, tất cả được coi là có hiệu lực “tối cao.” Do đó, Điều khoản
này được hỗ trợ bởi học thuyết gọi là “học thuyết phủ đầu.” Học
thuyết này giải nghĩa vấn đề như sau: Nếu
một đạo luật liên bang quy định, đưa ra chỉ tiêu trái ngược hẳn với luật
tiểu bang trong cùng một vấn đề, cùng một địa hạt, và địa hạt ấy Hiến pháp đã
quy định phải là phạm vi của liên bang, thì luật nào hơn, dân phải theo luật
nào, tiểu bang hay liên bang? Trong trường hợp ấy, toà án có thể sử dụng “Học
thuyết phủ đầu”[25] để
giải quyết xung đột theo nguyên lý như sau:
Nếu các điều kiện áp dụng học thuyết được giải tỏa thỏa đáng theo thông
luật, thì tòa án sẽ áp dụng học thuyết này để cho luật liên bang được “phủ đầu”
luật tiểu bang, và dân sẽ phải theo quy luật liên bang, còn luật tiểu bang thì
kể như phải bỏ đi. Mặc dầu như thế có nghĩa là chính phủ liên bang giữ
vai trò đứng đầu, các tiểu bang vẫn giữ quyền tự trị như quốc gia có chủ quyền,
chứ không lép vế hoặc bị “phủ đầu” trở thành phụ thuộc vào liên bang trong các
lãnh vực khác, thí dụ như các lãnh vực thuộc về quyền cảnh sát của nhà nước (an
ninh trật tự, sức khỏe cho dân…). Quyền nhà nước ấy vẫn thuộc về tiểu bang.
Thể
chế liên bang có nghĩa là quốc gia bao gồm hai cơ cấu chính phủ riêng biệt:
chính phủ trung ương quốc gia và nhiều chính phủ tiểu bang riêng biệt, mỗi
bên đều độc lập. Theo lời của thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa kỳ, Ngài
Anthony Kennedy, thì các nhà soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ đã “cắt
đôi cái nhân nguyên tử gọi là quyền lực quốc gia.”[26] Mặc dù các chủ quyền quốc gia cơ bản như
tuyên chiến, giữ hòa bình với nước ngoài, hoặc điều chỉnh trông coi
các vấn đề thương mại xuyên tiểu bang – đây là những vấn đề tiên quyết đã
được giao phó cho chính phủ liên bang, thì trách nhiệm quản
lý lãnh thổ hàng ngày và giữ an ninh trật tự cho dân địa phương vẫn là quyền và
nhiệm vụ của các tiểu bang. Quyền lực của chính phủ trung ương quốc gia được
quy định hạn chế rõ ràng trong Hiến pháp, và, do đó, chính quyền liên bang
không thể can thiệp vào chủ quyền độc lập của tiểu bang. Theo Hiến
pháp, quyền lực của chính phủ trung ương liên bang không thể lấn lướt hoặc thay
thế chủ quyền của tiểu bang, và các chính phủ tiểu bang vẫn được nắm nguyên tất
cả những quyền lực quốc gia mà Hiến pháp không giao cho chính phủ liên bang, hoặc
không giữ lại cho dân (có nghĩa là những quyền mà theo Hiến pháp, dân đã không
đồng ý giao cho nhà nước bằng khế ước xã hội, lấy thí dụ, những quyền tự do cá
nhân cơ bản trong Bản Tuyên ngôn Quyền con người). Chính phủ không thể vi phạm
những quyền tự do cá nhân này, và vi phạm tức là vi hiến.
Một đặc
điểm của thể chế liên bang được thể hiện tại Điều I của Hiến
pháp Hoa Kỳ là cấm không cho các tiểu bang thỏa thuận với nhau để lập thành
liên hiệp: ”Không có bang nào được phép giao kết lập liên hiệp với
một tiểu bang khác mà không có sự đồng ý của Quốc
hội liên bang…” .Điều cấm này đã được toà án liên
bang giải trình rằng đó là điều khoản ấy có mục đích ngăn chặn xu hướng
các tiểu bang muốn tăng quyền lực chính trị bằng cách thỏa thuận liên hiệp để
xâm phạm vào quyền hạn của chính phủ trung ương quốc gia.[27]
C. Chủ thuyết tư pháp bảo hiến: Hiến pháp cho tòa án quyền đánh giá hành vi hợp
hiến hay vi hiến của nhà nước.
Quyền
hạn của Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ không những được
thành lập trong Hiến pháp, mà còn được giải lý và bày tỏ qua truyền thống
thông luật của Hoa Kỳ. Như vậy, quyền tối hậu được quyết định các vấn đề Hiến
pháp cuối cùng sẽ nằm trong tay chín vị thẩm phán của Tòa án Tối
cao liên bang Hoa Kỳ.[28] Chỉ
những thẩm phán này mới được trình bày và giải thích ý nghĩa của Hiến
pháp, và sau đó, Tòa án Tối cao sẽ tuyên bố một hành động nào đó của chính phủ
(đã bị dân khiếu nại) là có vi hiến hay không. Phần này trong luật Hiến pháp ở
Mỹ được gọi là “Học thuyết tư pháp bảo hiến.” Học thuyết này cho phép Tòa án Tối
cao liên bang Hoa Kỳ giải thích vai trò mà Hiến
pháp đã giao cho chính Tòa án Tối cao, có nghĩa là Toà án phải tự
đứng ra quyết định, giải trình và đảm nhận vai trò Hiến
pháp của mình, thì từ đó mới giải thích Hiến pháp cho dân được.[29]
1. Những điều kiện mà thông luật đòi hỏi cần phải
được đáp ứng nếu người khiếu nại muốn Tòa án Tối cao liên bang xét xử vấn đề vi
hiến:
Hiến
pháp trao quyền tư pháp cho Tòa án Tối cao liên bang chứ không trao
quyền lập pháp cho cơ chế toà án này. Do đó, chủ thuyết tư pháp bảo hiến phải có giới
hạn. Ở một hình thức nào đó, Toà án phải tự đặt ra giới hạn cho
mình và phải quyết định khi nào thì toà án mới có quyền “lên tiếng” . Các
học thuyết về Hiến pháp hay những tiêu chuẩn do chính các thẩm phán liên bang đặt
ra (trong thể chế thông luật) trở thành thước đo để đánh dấu khi nào thì học
thuyết tư pháp bảo hiến mới có thể đem ra áp dụng.
Trước
hết, tòa án chỉ có thể quyết định các vấn đề Hiến pháp nếu có “vụ
án tranh cãi” do một đương sự khởi tố vì họ có tư thế chính đáng. Điều
này có nghĩa là vụ án đó được tạo ra vì đương sự đã đi kiện –
vì họ đã bị thiệt hại và sẽ bị
trực tiếp ảnh hưởng vì vụ án này. Vụ án ấy phải là một sự việc có thể
giải quyết được qua cơ chế tư pháp, không thể là một vụ án đã quá trễ nải, hoặc
chưa chín muồi đủ để toà xét xử, hoặc vấn đề quá trừu tượng không thể xác minh
thực tế. Tòa án không thể chỉ đưa ra một ý kiến mang tính
chất tư vấn mà phải giải quyết các tranh chấp thực tế
trong cuộc sống mang lại hậu quả pháp lý bằng những phán quyết có
tính chất tư pháp. Vụ án phải là một tranh chấp có thực
chứ không chỉ đơn thuần có tính cách hàn lâm như một cuộc tranh luận
trong lớp học. Việc tranh chấp không thể chỉ là một “câu hỏi chính trị” mà đáng
lý ra phải đem vào lĩnh vực của các ngành kia trong chính phủ chứ không phải
ngành tư pháp tức toà án. Nếu tất cả các tiêu chuẩn kể trên của
thông luật đều được đáp ứng thích đáng thì Toà án liên bang mới có thể đưa
ra quyết định và công khai ý kiến của các thẩm phán về vấn
đề vi hiến hay hợp hiến.
2.
Các thách thức hay khó khăn trong
việc giải thích và tuân thủ Hiến pháp:
Nhiều quyết
định của Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã giải quyết các
tranh cãi nóng bỏng trong xã hội Mỹ. Người dân không đồng ý với các thẩm
phán và bản thân các thẩm phán cũng không đồng thuận với
nhau. Những vấn đề khó khăn thường hay đi đến quyết định với số phiếu năm
trên bốn (trong khi có chín vị thẩm phán). Công chúng Mỹ có thể
không thống nhất ý kiến, nhưng quyết định của Tòa án tối
cao vẫn là quyết định Hiến pháp tối hậu trong một trường hợp có tranh cãi.
Quyết định của Tòa án tối cao đã và sẽ gây ra những thay đổi
trong xã hội và đã từng bị các nhà lập pháp phản đối gay gắt. Ví
dụ, sau khi quyết định của Tòa án tối cao năm 1954 bãi bỏ chế
độ phân chia chủng tộc được đưa ra,[30] hơn
100 thành viên Quốc hội liên bang đã chỉ trích quyết định này là
một việc “lạm dụng quyền lực tư pháp[31.“
Nhiều
học giả nghiên cứu về Hiến pháp cho rằng các thẩm
phán liên bang nên tuân thủ các mục đích và tinh thần
của Hiến pháp và không nên “cố tình tích cực làm luật.” Quan điểm đi ngược lại với việc thẩm phán
tích cực làm luật là quan điểm thẩm phán cần phải “tự giới hạn chính mình,”
không nên biến mình thành nhà lập pháp.
Các án lệ bằng văn bản của thẩm phán không thể phản ảnh
chính sách cá nhân của họ. Họ không thể tuyên bố
rằng một đạo luật của tiểu bang là vi hiến chỉ vì
nó đi ngược lại ý kiến chủ quan cá nhân hay chính sách
của riêng họ, hay chỉ vì họ muốn soạn ra một đạo luật mới. Mặt khác, có những học
giả lại cho rằng lý luận đạo đức phải là một phần
thiết yếu của phương pháp diễn giải Hiến pháp của Tòa
án liên bang Tối cao.[32]
D. Quyền tự do cá nhân và Tuyên ngôn về Quyền con
người
Một phần
quan trọng của Hiến pháp Mỹ là những quy định bảo vệ quyền cá
nhân chống lại sự xâm phạm của chính phủ, được thể hiện không những
qua văn bản Hiến pháp mà còn cả ở các thông luật của Tòa án Tối cao liên bang.
Các thẩm phán liên bang được bổ nhiệm theo Điều III của
Hiến pháp trở thành “người giám hộ” cho quyền cá nhân của người dân Mỹ. Đây
là toàn bộ học thuật bộ môn “quyền cá nhân” trong ngành luật Hiến
pháp Hoa Kỳ, mang những đặc điểm sau đây:
1. Nguồn gốc của quyền cá nhân
Theo
đúng văn bản thì Hiến pháp không hề ban bố quyền cá nhân mà chỉ quy định rằng
một số quyền cá nhân cơ bản bắt buộc phải có sự tôn trọng và
không thể bị chính phủ tước đoạt. Theo quan điểm của Tuyên ngôn Độc lập thì những
quyền cá nhân này được thừa kế từ luật tự nhiên và không thể tách rời khỏi con
người. Nhân quyền được xây dựng dựa trên quan điểm cho rằng tự do dân
sự không phải là ân sủng đến từ nhà lập pháp, vì quyền con người đã vốn
có trong bản chất con người, do đó, những gì có trong bản Tuyên
ngôn Quyền con người nhất thiết phải được Hiến pháp bảo vệ.
2. Học thuyết “Nhà nước hành động“
Hiến
pháp thưở ban đầu hay Tuyên ngôn Quyền con người của nước Mỹ không hề
bảo vệ cho con người trước những lạm dụng của tư nhân, mà chỉ bảo vệ con
người trước những sai lầm hay vi phạm của nhà nước hoặc trước luật hình sự của
các tiểu bang. Để có một vấn đề vi hiến, thì người vi hiến phải hành động ”dưới màu
sắc của pháp luật,” hoặc tham dự vào những công việc thườ ng là việc
của chính phủ, hoặc cùng mưu mô thủ đoạn với nhà nước, hoặc được nhà nước
tạo điều kiện cho hành động, và như vậy phạm nhân đó có thể
được mô tả như một “diễn viên nhà nước” (“nhà nước” ở
đây có nghĩa là chính phủ, cả liên bang cũng như các tiểu
bang). Quy chế này được gọi chủ thuyết “Nhà nước hành động.” Nếu
nhà nước không hành động thì không hề có vấn đề “vi hiến” (Ngoại lệ duy nhất
là Tu chính án thứ 13, cấm chế độ nô lệ, dù chế độ này
được thực thi bởi tư nhân hay chính phủ thì cũng vậy).
3. Học thuyết “kết hợp”:
Lúc đầu, Bản
Tuyên ngôn về Quyền con người chỉ được áp dụng cho chính phủ liên
bang (mỗi tiểu bang đều có Hiến pháp riêng của mình, cũng như cơ
chế hành pháp bởi Thống đốc, lưỡng viện lập pháp, và ngành
Tư pháp cho mỗi tiểu bang). Năm 1868, sau cuộc nội chiến, Tu
chính án thứ 14 được phê chuẩn và trực tiếp áp dụng cho tất cả các tiểu
bang. Trong thập niên 1960,Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã bắt
đầu giải thích Tu chính án thứ 14 và Điều khoản bảo vệ bình đẳng
cho con người, cũng như điều khoản tuân thủ các tiến trình xét xử theo luật
pháp nêu lên trong Tu chính án này để bắt đầu đem các quyền cá nhân cơ bản
của Bản Tuyên ngôn về quyền con người áp dụng ở tất cả các tiểu bang, qua
Tu chính án thứ 14. Đây được gọi là “học thuyết kết hợp” (có nghĩa là Toà án đã
“kết hợp” quyền Hiến pháp ở mức liên bang vào mức tiểu bang). Học thuyết này có
được áp dụng hay không là ở chỗ các quyền tự do cơ bản của Hiến pháp Hoa Kỳ có
bắt nguồn từ những “khái niệm cơ bản nòng cốt của nền tảng công lý Hoa Kỳ” hoặc
có “bắt nguồn sâu xa từ lịch sử và truyền thống của nước Mỹ ”
hay không.[33]
(Những tiêu chuẩn này cho thấy các thẩm phán
khi nhận định vấn đề bảo hiến đã sẵn sàng đi ra ngoài cơ cấu ngôn từ của văn bản
Hiến pháp để nhìn vào lịch sử cũng như truyền thống nước Mỹ, nhằm xác
định xem quyền cá nhân nào là cơ bản, và cái gì là không cơ bản trong Hiến
pháp Hoa Kỳ).
Ngày
nay, phần lớn Bản Tuyên ngôn về quyền của dân đã được đem áp dụng vào tất cả
các tiểu bang qua hình thức “kết hợp” bằng Tu chính án thứ 14. Theo đó, một phần
đáng kể của ngành luật học về Tòa án Tối cao liên bang, đặc biệt chuyên về các
quyền tự do cá nhân, đã được phát triển qua các án lệ của Toà án liên bang bàn
luận về điều khoản của Tu chính án thứ 14 (đòi hỏi việc tuân thủ quy trình luật
pháp trong vấn đề xét xử). Tuy nhiên,
nguồn gốc của các quyền liên bang về quy trình đòi hỏi xét xử theo trình tự
pháp luật lại chính là ở Tu chính án thứ 5 chứ không phải Tu chính án thứ
14. Cả hai Tu chính án thứ 5 và Tu chính án thứ 14 đều có ”Điều khoản quy trình xét xử theo luật
pháp”, nhưng Tu chính án thứ 5 không có ”Điều khoản bảo vệ bình đẳng” như Tu
chính án thứ 14. Nói một cách khác, Bản
Tuyên ngôn về quyền người dân (tức là 10 Tu chính án đầu tiên) không bao gồm
khoản bảo vệ bình đẳng, vì điều khoản này chỉ được thể hiện qua Tu chính án thứ
14 (mà Tu chính án thứ 14 lại không phải là một phần của Bản Tuyên ngôn về quyền
người dân). Khoản bảo vệ bình đẳng của
Tu chính án thứ 14 đã được đọc cùng với khoản về quy trình xét xử của Tu chính
án thứ 5, vì toà án liên bang đã áp dụng ”Học thuyết kết hợp” một cách ngược lại
(có nghĩa là, Học thuyết kết hợp (thông thường thì “kết hợp từ liên bang đến tiểu
bang) đã được áp dụng ngược lại (đi ngược
từ tiểu bang lên đến liên bang, thay vì đi xuôi từ liên bang xuống đến tiểu
bang).
4. Ngành luật
học nói về điều khoản đòi hỏi quy trình xét xử và điều khoản bảo vệ bình đẳng:
Điều
khoản đòi hỏi quy trình xét xử ở cả hai nơi – Tu chính án thứ 5 và thứ 14 –
không hoàn toàn đảm bảo quyền “sống, tự do, và có tài sản”.
Điều khoản này chỉ đảm bảo “quá trình pháp luật” trước khi một
người bị chính phủ trung ương, quốc gia hoặc tiểu bang tước đoạt những quyền
cơ bản ấy của mình[34].
Bảo vệ bình đẳng không có nghĩa là chính phủ áp dụng
luật cho tất cả mọi người theo cùng một cách. Ví dụ, người nhận
bản án với tội danh giết người sẽ phải xử phạt theo mức độ khác biệt. Bảo
vệ bình đẳng theo Hiến pháp chỉ đòi hỏi rằng những
công dân nằm trong những hoàn cảnh tương tự thì sẽ được đối xử bình đẳng
trước pháp luật như nhau[35] (Ở
đây, để bảo hiến và xem xét tính hợp hiến trong các hành động của chính
phủ, thì mặc dù Tòa án Tối cao là một phần của chính phủ liên
bang, Tòa án lại là một cơ quan độc lập, và các thẩm phán bắt buộc phải tự
bước ra ngoài vai trò “chính phủ” của mình để phân xử chính xác và độc
lập: liệu các hành động của nhà nước bị đương sự chống đối trong vụ án có thực
sự là hành động vi hiến hay không).
A. Điều khoản
về quy trình xét xử theo pháp luật:
Dùng
học thuyết tư pháp bảo hiến, Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã
đặt ra các tiêu chuẩn về quy trình xét xử theo trình tự pháp luật, gọi là “thủ
tục pháp lý,” đồng thời cũng đã xây dựng nên quy định “nội dung” cho quy trình
và thủ tục xét xử này (chứ không phải chỉ đặt “thủ tục” là vấn đề hình thức).
Tòa án phân biệt “nội dung” của quy trình xét xử theo thủ tục pháp
lý, khác hẳn thủ tục hay quy trình xét xử theo luật. Hành động của chính phủ phải
đáp ứng cả hai tiêu chuẩn, nội dung cũng như hình thức thủ tục, chứ nếu
không, hành động ấy sẽ bị coi là vi hiến, và Tòa án sẽ vô hiệu hóa hành động vi
hiến ấy.
Về
hình thức, quy trình xét xử theo thủ tục pháp lý được đặt ra để ngăn chặn những
hành động của chính phủ có tính cách “ngang ngược” và không hợp lý. Quy
trình này đòi hỏi chính phủ phải thông báo trước về hành vi của mình, một cách
hợp lệ, và cá nhân “khổ chủ” phải có một cơ hội có ý nghĩa để biện minh
cho chính mình trước khi cá nhân bị chính phủ tước đoạt cuộc
sống, sự tự do, và tài sản của mình.
Về nội
dung, quy trình xét xử này đòi hỏi các hành động của chính phủ cần phải
vượt qua một trong ba tiến trình xem xét bởi Tòa án. Nói khác đi, hành vi của
chính phủ cần phải đáp ứng một trong ba tiêu chí sau đây[36]. Tùy theo từng vụ
án, Toà án liên bang sẽ xem xét hành vi bị cá nhân chống đối ấy nhằm quyết định
xem tiêu chí nào phù hợp với hành động nào của chính phủ rồi tuân theo quy định
của tiêu chí đó mà suy xét vấn đề hợp hiến hay vi hiến về nội dung. Tòa án đã
xác định ba tiêu chí này dựa trên các từ tiếng Anh rất “nôm na” như sau, nhằm
thiết lập các tiêu chuẩn rất quan trọng cho việc áp dụng Hiến pháp vào hành vi
của chính phủ khi bị dân chống đối trong Tòa án. Ba tiêu chí này đặt ra ba cấp
bậc hoặc ba mức, cho việc Tòa án suy xét nội dung cua vấn đề vi hiến hay hợp hiến:
(i)
Mức tối thiểu, thấp nhất và nhẹ nhất cho Tư pháp
xem xét (“Trắc nghiệm Hợp lý”): đòi hỏi rằng hành vi của chính phủ, thí dụ một đạo luật nào đó) phải dựa trên cơ sở khách quan làm cho đạo
luật ấy có tính chất hợp lý, có nghĩa là đạo luật có liên quan hợp lý đến một
mục đích chân chính nào đó của chính phủ.
Thí dụ: quyền sử dụng vũ lực của chính phủ để bảo toàn sức khỏe, an
ninh, trật tự công cộng và phúc lợi chung cho dân. (Đây là tiêu chí thấp nhất, thường dành cho
ngành tư pháp xét xử các vụ việc liên quan tới các đạo luật hay quy định về
kinh tế).
(ii)
Mức tối đa, tiêu
chí khó nhất và cao nhất trong việc tư pháp xem xét hành vi của chính phủ (“kiểm tra giám
sát nghiêm ngặt”): Mục này đòi hỏi
sự giám sát vô cùng chặt chẽ của nhánh tư pháp. Ở tiêu chí này, hành vi hay đạo luật của chính phủ bị
dân chống đối được coi như là đương nhiên vi hiến, có nghĩa là chính phủ phải
mang gánh nặng chứng minh tính
chất hợp hiến cho hành vi của mình. Thí dụ,
đạo luật hay quy định áp dụng vào dân đã được giới hạn rất nghiêm ngặt vì đó là
biện pháp ít thương tổn nhất để thực thi mục đích của chính phủ. Đạo luật hay
quy định, hành vi của chính phủ là biện pháp cần thiết để thi hành một mục tiêu
rất cần kíp bắt buộc phải có của chính phủ.
Tòa án Tối cao đã xem xét và áp dụng tiêu
chuẩn “giám sát nghiêm ngặt” mỗi khi chính phủ vi phạm đến ”các quyền
cơ bản trong Hiến pháp” nêu lên từ Bản Tuyên ngôn quyền người
dân. Như~ng quyền cơ bản này gồm có các quyền được Hiến pháp bảo đảm trong
thủ tục tố tụng hình sự (Tu chính án thứ
4, 5, 6, và 8 ). Quyền tự do ngôn luận, tôn giáo,
hội họp trong Tu chính án đầu tiên là quyền cơ bản, và như vậy ở Mỹ,
các quyền tự do của Tu chính án thứ nhất được đảm bảo vô cùng chặt chẽ đến nỗi
mà ngay cả các loại ngôn luận có tính chất gây ra thù ghét, bi. khinh khi, hay quá khác biệt với đạo đức
quần chúng cũng vẫn được bảo vệ gần như tuyệt đối [37]. Cấm
đoán tự do ngôn luận trước khi lời nói được bày tỏ cũng bị coi như là một thủ
phạm vi hiến, cần phải xem xét nghiêm ngặt bởi ngành tư pháp. Như thế, đặc biệt,
việc hạn chế tự do ngôn luận, thường bị coi là vi hiến, dưới các
tiêu chuẩn giám sát chặt chẽ của Tòa án Tối cao liên bang.[38] Tuy
vậy, các quyền tự do cơ bản nhất cũng vẫn có thể bị chính phủ hạn chế,
miễn là các hành động của chính phủ được giám sát chặt
chẽ và đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hiến mà Tòa án tối cao liên
bang đã xây dựng nên. Ví dụ, Tòa án Tối cao liên bang đã đưa ra
một cuộc thử nghiệm gọi là “trắc nghiệm cân bằng” nhằm phân biệt tự
do tín ngưỡng được Hiến pháp bảo vệ, khác với hành vi tín ngưỡng vẫn có thể bị
các tiểu bang hạn chế vì an ninh trật tự xã hội dưới sự giám sát chặt chẽ của
Tòa án liên bang. Tương tự như vậy, tự do ngôn luận cũng có thể bị chính
phủ hạn chế hay cấm đoán, nhưng chỉ trong giới hạn vô cùng chặt chẽ, theo đúng
như các án lệ của Tòa án Tối cao đưa ra, và điều này đã tạo nên một ngành của
luật học rất bao quát và công phu, chuyên môn về án lệ diễn giải tu chính án thứ
nhất của Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ.
[39]
(iii)
mức xét đoán
lưng chừng, trung bình, ở giữa (“intermediate”): ở cấp bậc hay tiêu chí “trung trung” này, thì mục đích của chính phủ, thực
thi bởi hành vi hay đạo luật hoặc quy định nhà nước phải được Tư pháp coi là “
quan trọng” và “cấp bách.” Đạo luật hay hành vi của chính phủ bị nguyên đơn chống đối phải “liên
quan mật thiết” đến mục đích quan trọng ấy. “Phương tiện” đề đạt thành “cứu
cánh” của chính phủ phải được Tư pháp xem là nằm ngay giữa mục “hợp lý tối
thiểu” và mục “cần kíp tối đa”.
B. Điều khoản bảo vệ quyền bình đẳng:
1. Điều khoản bảo vệ quyền bình đẳng ở Tu
chính án thứ 14 (được ngụ ý tiềm ẩn vào Tu chính
án thứ 5 do học thuyết “kết hợp” được áp dụng “ngược”, đi từ
tiểu bang lên ngược đến liên bang). Điều khoản này đã được sử dụng để làm
vô hiệu hóa các hành vi của chính phủ nhằm phân biệt các nhóm người hay các
loại người bằng cách tạo gánh nặng cho quyền tự do cơ bản của họ. Theo học
thuyết bảo hiến tư pháp, các thẩm phán bảo hiến cho rằng các nhóm người bị kỳ
thị này là các nhóm “cần được bảo vệ”: theo dòng lịch sử, họ đã chịu thiệt
thòi, bị kỳ thị vì những đặc tính bẩm sinh không thể thay đổi được chẳng hạn
như chủng tộc, màu da, nguồn gốc văn hóa hoặc quốc gia, hoặc giới tính. Vì vậy,
Tòa án tối cao liên bang giải quyết vấn đề chủng tộc hoặc nguồn
gốc quốc gia bằng cách coi như các “nhóm người” này là những nhóm “dễ bị tổn
thương” vì các quyền tự do cơ bản của họ thường không được bảo đảm hay rất dễ
bị tước đoạt.
2. Ba tiêu chí hay cấp bậc kể trên được Tòa án bảo hiến
sử dụng trong việc phân tích Điều khoản hiến pháp về quy trình xét xử trước
pháp luật, đồng thời cũng được sử dụng trong việc Tòa án bảo hiến phân tích
Điều khoản bảo vệ quyền bình đẳng. Cụ thể là việc phân tích quyền được bảo vệ
bình đẳng trong các vụ án kiện chính phủ đã phân biệt đối xử với các
nhóm người cần được bảo vệ, gây nên vấn đề vi hiến. Nói tóm lại, Tòa
án bảo hiến sử dụng một hình thức thử nghiệm dựa trên “cứu cánh và phương
tiện” của hành vi nhà nước khi phân loại các nhóm người và đối xử với họ không đồng đều, nhằm xác định xem hành vi ấy có hợp hiến hay không. Thử
nghiệm này đòi hỏi Tòa án phải so sánh phương tiện mà chính phủ sử
dụng với mục đích mà chính phủ dùng để biện minh cho việc phân loại trên. Hành
vi hoặc quy định của chính phủ sẽ bị coi là vi hiến nếu đó là phương tiện
sử dụng quá lố hay không chính đáng để đạt tới mục tiêu. Nếu thế thì quy định
của chính phủ sẽ phải hủy bỏ đi.
3. Sau đây là các ví dụ xem Tòa án đã quyết định như thế
nào khi áp dụng ba cấp bậc xem xét này:
a. Mức tối thiểu: thử nghiệm sơ sài nhất dựa trên việc xem xét tính “hợp lý” này
thường dành cho việc chính phủ phân biệt cách đối xử dựa trên tuổi tác
và các quy định phúc lợi (thí dụ: tất cả khối người
nghèo không phải là một nhóm người bị bạc đãi vì cá tính bất di bất diệt
cần được luật pháp bảo vệ, và phúc lợi được hưởng về giáo dục không phải là một quyền cơ bản con người cần được Hiến pháp bảo đảm).
b. Mức tối đa: thử nghiệm dựa trên cấp bậc xem xét, khắt khe nhất,
thường được dành cho việc chính phủ đã phân loại dựa trên màu da, nơi sinh quán
và chủng tộc.
c. Mức trung bình (dựa trên những thuật ngữ có tính chất “trung
dung” trong tiêu chuẩn đánh giá, cấp bậc này nằm ngay ở giữa mục sơ sài và mục
nghiêm ngặt): thường dành cho phân
loại theo giới tính, con hoang hay con chính thức, người có
quốc tịch hay là người nước ngoài. Vì mục đích khó xác định, chỉ nằm ở mức
“trung dung” giữa hai thái cực, thành ra kết quả khó dự đoán hơn, thường là
không rõ ràng.
Ngoài ra, Hiến pháp còn bảo vệ các quyền cơ
bản không được nói lên rõ nét bằng văn vản trong Hiến pháp, bằng cách “kết
hợp” các điều khoản của Tu chính án thứ 5 và Tu chính án thứ 14, để tạo
nên một số quyền cá nhân rất cần thiết và là hệ quả của các quyền cơ bản khác
mà Hiến pháp đã nói đến. Những quyền cơ bản này là các quyền
tạo nên bởi “ngụ ý,” bao gồm quyền tự do liên hiệp, lập hội và có bạn
bè đàn đúm, quyền tự do riêng tư hay đời sống cá nhân, và quyền
tự do đi lại[40].
Nói tóm lại, học thuyết bảo hiến do các thẩm phán tối
cao liên bang đặt ra đòi hỏi cơ quan bảo hiến phải xem xét hành vi của chính phủ,
không những về hình thức xét xử hay tố tụng, mà còn về nội dung của hành vi ấy
dưới 3 tiêu chí đặt ra như tôi đã giải thích ở tre^n.
IV. Kết luận:
Hiến
pháp Hoa Kỳ thiết lập một chế độ mà vị Tổng thống quá cố
Abraham Lincoln đã mô tả: đó là “một
chính quyền của dân, do dân, và vì dân.” Hiến pháp Hoa Kỳ không chỉ đặt nền móng cho
tính chất “ tối cao” của pháp luật trong một cơ chế pháp quyền, mà còn thể hiện
khát vọng không ngừng của nhân dân Mỹ. Khát vọng của dân Mỹ không những chỉ được
thể hiện tại thời điểm ban hành Hiến pháp (một chu trình mà ngành luật Hiến
pháp Mỹ gọi là việc diễn giải ”ý định đầu tiên” của các vị sáng lập ra
Hiến pháp”), mà còn được nói lên ngày hôm nay cũng như ngày mai, bởi
vì ván bài Hiến pháp đã từng được trải qua, và sẽ tiếp tục được trải
qua, không biết bao nhiêu là giải trình qua các án lệ Hiến pháp của ngành Tư
pháp. Ví dụ, lúc đầu thì Bản Tuyên ngôn Nhân quyền bảo vệ pháp
lý cho đàn ông da trắng, không bao gồm đàn ông da màu
và phụ nữ. Đến thời điểm hiện
nay, rất nhiều Tu chính án và án lệ của ngành Tư pháp đã tiếp tục bổ sung và cập
nhật hóa Hiến pháp để đem việc bảo đảm quyền con người đến với tất cả các công
dân hay cá nhân sinh sống ở Mỹ đều được hưởng các quyền cơ bản như nhau trước
Hiến pháp. Cuối cùng thì học thuyết tư
pháp bảo hiến, áp dụng bởi các vị thẩm phán Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ, đã
là tiếng nói của người gác cửa cho các nguyên tắc của Hiến pháp Mỹ, mãi cho đến
khi nào toàn dân Mỹ (thông qua Quốc hội liên bang và các đại biểu tiểu bang)
quyết định chọn lựa việc sửa đổi Hiến pháp liên bang một lần
nữa theo như mong muốn của dân Mỹ.
__________________________________________
CHÚ THÍCH CHO BÀI VIẾT: Có tất cả 40 chú thích
[1] Vị Tổng thống thứ 4
trong lịch sử Hoa kỳ, James Madison, được mệnh danh là “Cha đẻ của Hiến
pháp,” đã làm sáng tỏ vấn để nổi bật của Hiến pháp là: làm thế nào để Chính phủ
có đầy đủ mọi quyền lực thực hiện nhiệm vụ được dân chúng giao mà không xâm
phạm tới những quyền tự do cá nhân.
[2] Hiến pháp là văn bản
pháp luật tối cao của đất nước. Tưởng cũng nên nói thêm về sự tương quan
giữa luật pháp quốc tế và luật pháp nội địa Hoa Kỳ. Luật
pháp quốc tế được coi là pháp luật của toàn thế giới.
Tuy nhiên, ở Mỹ, một hiệp ước quoc te phải được phê chuẩn trong nước thì
mới trở thành luật nội địa, để có thể áp dụng ngay trên đất nước.
Sau khi được phê chuẩn, hiệp ước sẽ có cùng một mức độ giá
trị như một đạo luật liên bang.
Nếu hiệp ước và luật liên bang mâu thuẫn với nhau, thì
cái nào đến sau sẽ có giá trị thay cái đến trước. Bởi vì một đạo luật liên
bang đến sau có thể chấm dứt một hiệp ước đến trước, nên Quốc hội Hoa
Kỳ có thể ban hành một đạo luật có hiệu lực kết
thúc một hiệp ước quoc te mà trước đây Tổng thống đã ký kết. Tòa án Tối cao
Hoa Kỳ – tòa án có quyền lực cao nhất nước Mỹ được hình thành
bởi Hiến pháp — đã diễn giải rằng thông luật quốc tế là
một phần thiết yếu của luật nội địa áp dụng trong nước Mỹ.
[3] Văn kiện tiên quyết đi
trước Hiến pháp là Bản Tuyên ngôn Dộc lập của nước Mỹ soạn năm 1776,
và Điều lệ Liên bang soạn năm 1781. Tại Hội nghị Lập hiến năm
1787, các đại biểu quyết định sửa đổi, thay thế Điều lệ Liên bang bằng cách soạn
thảo bản Hiến pháp. Các nhà sáng lập và soạn thảo Hiến
pháp Mỹ được coi như các kiến trúc sư chính trị và pháp
lý của đất nước, vì họ đã đặt nền móng cho việc xây dựng luật pháp và lý
thuyết cộng hòa.
[4] Trong bài viết
này, ”Bang” (viết hoa chữ cái đầu) đề cập cụ thể
đến các bang có chủ quyền; chữ “bang” không viêt hoa (chữ
thường) nói chung đề cập đến nhà nước Mỹ, chính
phủ liên bang cũng như các tiểu bang.
[5] Tu chính án thứ
14 cũng có một khoản tạo nên đặc quyền phúc lợi và miễn trừ cho công
dân, nhằm bảo vệ quyền công dân của liên bang. Ví dụ, Tu
chính án thứ 14 được áp dụng để bảo vệ các công dân ”mới chuyển
đến” một tiểu bang mới.
[6] Ví
dụ, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã bác bỏ một điều luật
của tiểu bang trong việc hạn chế không cho công dân của các bang khác được
gia nhập luật sư đoàn, được hiểu như một đạo luật có tác dụng phân biệt công
dân giữa các bang, hoặc làm cản trở việc di chuyển từ bang này đến bang khác
(quyền tự do đi lại). Xin xem án lệ Tòa án tối cao New
Hampshire kiện Piper, 470 US 274 (1985).
[7] Trong lịch
sử nước Mỹ, khoảng 10.000 dự thảo Tu chính án đã được Quốc
hội giới thiệu để sửa đổi Hiến pháp. Nhưng chỉ có 27 tu
chính án nhận được sự phê chuẩn của ¾ các bang. Tất cả
27 tu chính án này là do Quốc hội đề xuất. Dự thảo Tu chính án gần
đây nhất được đề nghị mà không thành công là Tu chính án về
quyền bình đẳng giới tính năm 1972 nhằm mục đích tạo dựng
cơ chế nam nữ và giới tính bình quyền ở Mỹ. Hiện nay, đầu
thế kỷ hai mươi mốt, tuy không có quy định từ Hiến pháp về giới tính bình
quyền, một số các tiểu bang ở Mỹ đã cho phép người đồng tính được bình quyền
với người khác tính trong lãnh vực cưới hỏi trước pháp luật và trong lãnh vực
phúc lợi xã hội.
[8] Lý do ở đây là vì lịch sử
lập quốc của Hoa Kỳ: một quốc gia thành lập bởi dân di cư, chạy trốn
sự đàn áp tôn giáo ở Âu châu, cũng như do các cuộc tranh
luận mạnh mẽ đi đến việc thành lập một liên bang độc lập thoát
khỏi sự cai trị của nước Anh, do sự tập hợp của các tiểu bang. Tu chính án thứ
nhất được coi là tinh túy và là quyền ưu tiên cơ
bản tại Mỹ, được công lý bảo vệ triệt để tại tòa án. Luật học tạo ra
bởi Tòa án liên bang Tối cao đã đưa ra các trường hợp ngoại lệ nhất
định rất hạn hẹp gần như trong gang tấc: chỉ trong các trường hợp ngoại lệ
rất gay go, rất hạn hẹp trong gang tấc này, Chính phủ mới được quyền giới
hạn các quyền tự do cá nhân thuộc về Tu chính án thứ nhất. Tuy nhiên Chính
phủ chỉ có thể giới hạn trong chừng mực, miễn là những quy định giới hạn
đó được tòa án xem là tối cần thiết cho lợi ích chung được chính phủ bảo
vệ, và những quy định đó phải tuân theo thủ tục bảo hiến dưới con mắt của ngành
tư pháp trong tiêu chuẩn “giám sát chặt chẽ” do Tòa án Tối cao Liên bang đặt
ra.
[9] Hai điều
khoản về “tôn giáo” được viết ngắn gọn trong một
câu và đã bị một số học giả chỉ trích, thậm chí cho rằng hai
điều khoản ấy gây căng thẳng với nhau: ”Quốc hội
sẽ không được ban đạo luật tôn sùng cơ sở tôn
giáo, hoặc ngăn cấm việc tự do thực hiện hành vi tôn giáo”.
Hiến pháp Hoa Kỳ - Điều VI - khoản 3 cũng cấm chính phủ
không được sử dụng “bất cứ kỳ thi có tính cách tôn giáo nào trong việc
tuyển chọn công chức cho các cơ quan chính quyền hay các văn phòng cần có niềm
tin của quần chúng.” Như vậy, Hiến pháp đã tách tôn giáo ra khỏi hẳn nhà
nước và thiết lập nước Mỹ thành một chính phủ thế tục không
phụ thuộc vào bất kỳ giáo hội nào.
[10] Tuy nhiên, Quốc
hội và các bang có thể ban hành luật kiểm soát súng, mặc dù những đạo luật này
nói chung có thể không được lòng dân, và đã gây tranh
cãi khá gay go trong xã hội Mỹ.
[11] Các quyền về sở hữu
tài sản không được quy định trong Hiến pháp. Quyền tư hữu là luật của từng tiểu
bang.
[12] Hành vi vi hiến của
chính phủ lấy tài sản của dân khác hẳn với việc chính phủ bắt buộc phải ban
hành quy định trưng dụng tài sản tư nhân cho các mục đích công chính đáng, đúng
theo quyền hạn và trách nhiệm gìn giữ trật tự công cộng của chính phủ. Vì thế,
việc phân tích hành động của chính phủ có vi hiến hay không sẽ tùy thuộc vào
nhận định xem hành vi ấy có nghiêm trọng đến nỗi bị xem như là “tước đoạt tài
sản của dân” trái với Hiến pháp hay không. Các đạo luật phân chia ranh giới
phát triển nhà cửa, đô thị, đòi hỏi cư dân phải tuân thủ quy định của chính phủ
về việc sử dụng đất đai vì mục tiêu trật tự công cộng đã được xem là hợp hiến.
[13] Ví dụ, ở tiểu bang
Gerogia, hình phạt tử hình không được phép thi hành
đối với tội hiếp dâm, theo án lệ vụ Coker kiện bang
Georgia, 433 US 584 (1977), nhưng nhà nước vẫn có
thể thi hành thủ tục Hiến pháp hình sự để áp đặt
hình phạt tử hình cho một tội nhân bị kết án về tội giết người, xem
thêm vụ Gregg kiện bang Georgia, 428US 153
(1976).
[14]
Tuy nhiên, công dân vẫn có thế khởi tố cán bộ, công chức của tiểu
bang, nhưng các vị này vẫn có thể được hưởng các đặc quyền miễn trừ theo
luật của tiểu bang đó. Hơn thế nữa, đặc quyền miễn trừ đặt ra bởi Tu chính án
thứ 11 chỉ có thể áp dụng trong các vụ án mà nguyên đơn đòi thiệt
hại, không thể áp dụng vào các đòi hỏi của nguyên đơn xin tòa án phán
quyết hay tuyên bố vấn đề gì khác, cũng không cấm việc chính phủ liên bang Mỹ
hoặc các tiểu bang khác làm đơn khởi tố.
[15] Đây là một tu chính
án rất quan trọng: “Không có một nhá nước nào có thể ban hành hay thực hiện bất
cứ một luật lệ nào nhằm mục đích xâm phạm vào đặc quyền phúc lợi hoặc miễn trừ
của công dân Mỹ” (“điều khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ”), cũng không có một nhà nước nào có
thể tước đoạt đi quyền được sống, tự do hoặc tài sản của bất cứ ai, mà
không áp dụng đúng theo tiến trình xét xử của luật lệ (“điều khoản tiến trình
xét xử””), cũng không được từ chối bất kỳ ai quyền được bình đẳng
trước pháp luật” (“điều khoản bảo vệ bình đẳng”). Hiến pháp
Hoa Kỳ - Tu chính án thứ 14 – Mục 1. (Nên chú ý: câu
trước của Tu chính án này dùng ngôn từ “công dân”, nhưng hai điều khoản bình
đẳng thì nói về “bất cứ con người nào (sống ở Mỹ), chứ không dùng từ ngữ “công
dân”).
[16] Nói về Bản Tuyên ngôn
Quyền con người của Hoa Kỳ thì Tu chính án thứ 2 và 3 chưa được Tòa án tối cao
liên bang Hoa Kỳ áp dụng cho các tiểu bang. “Điều khoản truy tố bởi một
đại bồi thẩm đoàn” của Tu chính án thứ 5, điều khoản đòi hỏi
xét xử bởi bồi thẩm đoàn áp dụng cho các vụ xét xử dân sự theo Tu
chính án thứ 7, và Tu chính án thứ 8 cấm việc áp dụng tiền phạt quá mức hợp lý,
tất cả đều chưa được áp dụng ở mức tiểu bang. Theo bản chất thì hai tu
chính án thứ 9 và thứ 10 không cần phải tuyên bố được áp dụng vào tiểu bang. Vì
thế, Bản Tuyên Ngôn Quyền con người, khi đem áp dụng vào tiểu bang và liên
bang, thi có sự chênh lệch, mặc dù hầu như nội dung
bảo vệ các quyền tự do cơ bản của Tuyên ngôn
Quyền thì đều giống nhau ở cả hai cấp: liên bang cũng như tiểu
bang.
[18] Như thế, Chủ tịch
Thượng Viện tức là Phó Tổng thống có quyền bỏ phiếu để thông qua các đạo luật
bằng cách dùng lá phiếu giải quyết khi có tình trạng tổng số phiếu ngang bằng
cả hai bên (có nghĩa là cả hai bên chống hay thuận đều có cùng số phiếu).
[19] Những Điều
khoản ”cần thiết và thích hợp” tương tự như vậy cũng có mặt trong các
tu chính án 13,14, 15, 19, 24 và 26, cho
phép Quốc hội thực thi một biện pháp nào đó bằng cách soạn các
đạo luật thích nghi. Những tu chính án gần nhất thì thường chỉ cho
phép Quốc hội được dùng đủ mọi dự luật thích đáng nhằm thực thi trách
nhiệm lập pháp của mình, miễn là biện pháp (qua đạo luật) đó thích hợp là
được rồi, không nhất thiết phải tối cần. Thí dụ: Án lệ vụ McCulloch kiện
bang Maryland, 17 US 316 (1819) (quyền lực mà
Hiến pháp giao cho chính phủ liên bang có thể được dùng để Quốc hội liên bang
tạo dựng ra một nhà băng làm Ngân khố của Hợp chủng quốc, cho dù nhà băng
ấy không được coi là “cần thiết”).
[20] Có một loại quyền lực tiềm
ẩn, độc nhất và rất lớn của Tổng thống (không nhánh nào khác của chính phủ
có loại quyền lực này ngoài Tổng thống), đó là quyền hành pháp nằm trong địa
hạt ngoại giao. Tổng thống có thể quyết định ký kết các thỏa thuận, hiệp
ước với nước ngoài nhằm can thiệp vào ảnh hưởng và hiệu lực của một hiệp
ước nào đó đã có sẵn mà không cần sự phê chuẩn của Quốc
hội. Một thỏa thuận quốc tế như vậy, ký kết vì Tổng thống sử dụng đặc
quyền có một không hai trong địa hạt ngoại giao này, sẽ xóa bỏ tất cả
những đạo luật mà Quốc hội đã ban ra từ trước mà vẫn không vi phạm chủ thuyết
“phân chia quyền lực” của Hiến pháp Hoa Kỳ.
[21] “Quyền tuyên chiến
“ là một vấn đề đã từng gây nhiều tranh cãi, đặc biệt là trong
suốt cuộc chiến tranh Việt Nam và các thời điểm gay go khác, sau
khi chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.
[22] Trong lịch sử Hoa
Kỳ, đã có các ứng cử viên Tổng thống đã đắc cử vì giành
được phiếu của đại diện cử tri (vì số đại diện cử tri nhất định của từng tiểu
bang), trong khi mất phiếu phổ thông của quần chúng.
[23] Các tiểu bang có
chủ quyền thành lập nên nhánh tư pháp riêng của
mình. Các thẩm phán tiểu bang xét xử các vấn đề của tiểu bang ở
ba cấp độ: tòa án xét xử, tòa án phúc thẩm, và Tòa
án Tối cao. Bởi vì Điều khoản “quyền tối cao” của Hiến pháp liên
bang, và qua Tu chính án thứ 14 (Điều khoản bảo vệ công dân liên
bang), Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã đem Bản Tuyên ngôn
quyền con người áp dụng vào tất cả các tiểu bang, cho nên các tòa án tiểu
bang cũng có quyền xét xử các vấn đề Hiến pháp liên bang, y hệt như tòa án liên
bang, và các vấn đề Hiến pháp liên bang thông thường cũng là vấn đề Hiến pháp
tiểu bang. Có nhiều khi thủ tục pháp lý của tiểu bang có điều khoản
cho phép các vấn đề Hiến pháp liên bang được ”chứng
thực” hoặc gửi đến tòa án liên bang xét xử. Tuy nhiên,
Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ là nơi có thẩm quyền xét xử phúc
thẩm cuối cùng cho tất cả mọi vấn đề Hiến pháp liên bang.
[24] Trong lịch sử Hoa
Kỳ đã có bảy Tu chính án Hiến pháp được phê
chuẩn nhằm duy trì các quyền khác nhau của Tòa án tối cao.
[25] Học thuyết “phủ
đầu” bao gồm hai loại:
(i) ”phủ đầu vì xung đột luật pháp”: khi một
vấn đề không thể giải quyết hay thực hiện theo cả luật liên bang
và luật tiểu bang, trái lại luật tiểu bang gây trở ngại cho mục tiêu
của luật liên bang, thì trong trường hợp đó, luật liên bang được coi
là tối cao và “phủ đầu” luật tiểu bang.
(ii) “phủ đầu chỉ từng lĩnh vực”: (trường hợp luật
liên bang nói lên mục đích và chủ trương quá rộng lớn và quá bao quát, và đề án
của liên bang được xem là đầy đủ và phản ánh hoàn toàn ý
định của Quốc hội nhằm quản lý toàn bộ lĩnh vực được nêu ra
trong luật, thì sẽ không có chỗ cho tiểu bang điều chỉnh hoặc xen vào
(nhất là nếu đây là phạm trù hay thẩm quyền của liên bang đã được Hiến pháp
vạch rõ và quy định).
Xem án lệ vụ Silkwood kiện Kerr-McGee Corp, 464US 238 (1984) (việc chính phủ
trông coi các cơ sở nguyên tử hạt nhân là phạm vi hoàn toàn thuộc về thẩm quyền
của liên bang, mặc dù luật của tiểu bang có thể bổ sung cho luật liên
bang về lãnh vực bồi thường thiệt hại dân mà thôi nếu người dân bị thương
tích).
Các lĩnh vực khác đã được Tòa án liên bang
Tối cao áp dụng học thuyết “phủ đầu” gồm có chính sách di trú nhập
tịch và vấn đề thương mại quốc tế.
[26] Xem án lệ vụ U.S. Term
Limit, Inc. kiện Thornton, 514 U.S. 779, 838 (1995) (Kennedy, J., phán
quyết đồng ý).
[27] Tuy nhiên, Quốc
hội liên bang Mỹ cũng đã đồng ý cho thành lập một số thoả
thuận liên hiệp giữa các tiểu bang, thí dụ như Cơ quan Quản trị
Hải cảng New York và Liên hiệp sông Colorado lập nên nhằm tạo ra biện
pháp ngăn ngừa lụt lội va mưa lũ.
[28] Nhà triết học người
pháp Alexis de Tocqueville đã nêu lên tầm quan trọng của Tòa án
Tối cao liên bang Hoa Kỳ qua việc Thẩm phán Tối cao đưa ra “án lệ”: “Hòa bình, thịnh vượng, và sự tồn
tại của Liên bang Hoa Kỳ liên tục nằm trong
tay của chín vị thẩm phán này”. Không có án lệ của họ thì Hiến
pháp Hoa Kỳ sẽ chỉ là những ngôn từ chết; … quyền lực của
họ bao la, nhưng quyền lực đó lại xuất phát từ quan niệm của họ
qua những gì họ viết… ” (các chữ in đậm là của tác giả bài viết
này, chứ không phải trong nguyên bản của triết gia de Tocqueville).
[29]
Một ví dụ của Toà án quyết định vai trò Hiến pháp của
mình bằng cách áp dụng “Học thuyết bảo hiến tư pháp” đã được chứng
minh trong vụ Marbury kiện Madison, 5 US 137
(1803). Trong vụ án ấy, Tòa án Tối cao đã bác bỏ một điều khoản của
Đạo luật Tư pháp do Quốc hội liên bang đưa ra để gia tăng thẩm quyền ban
đầu của Tòa án Tối cao, trong khi Hiến pháp đã hạn chế quyền lực xét
xử phúc thẩm của Toà án Tối cao rất rõ ràng, và chỉ cho Quốc hội mở rộng thẩm
quyền tòa án ở mức phúc thẩm mà thôi chứ không phải ở thẩm quyền ban đầu.
Trong vụ Marbury, Tòa án Tối cao liên bang đã tuyên bố rằng
đạo luật ấy do Quốc hội soạn ra là một đạo luật vi hiến. Nói cách khác,
Tòa án Tối cao liên bang đã vô hiệu hoá hành động của Quốc hội bằng cách
tự hạn chế quyền hạn của
Tòa án Tối cao đúng theo như Hiến pháp đã quy định, dù rằng Quốc hội đã mở rộng
cho Toà án Tối cao nhiều quyền hơn là Hiến pháp cho phép. Như thế, Quốc Hội đã tăng quyền
của tòa án đi quá sự hạn chế của Hiến Pháp, nhưng trớ trêu thay, tòa án đã từ
chối không chịu nhận sự ban phát thêm quyền lực cho chính họ, vì như thế là vi
hiến. Tòa án không tham lam và đã thi hành nhiệm vụ bảo hiến của họ, những gì
Hiến Pháp đòi hỏi họ phải làm, dù rằng từ chối quyền lực không phải là chuyện
dễ dàng cho con người. Để nghiêm túc
tuân hành Hiến pháp,Toà án Tối cao đã tự động khước từ việc Quốc hội nới rộng
và ban thêm thẩm quyền cho Toà án. Điều này cho thấy cơ chế bảo hiến ở Mỹ là
một guồng máy rất có hiệu quả.
[31] Nếu Tòa án Tối
cao thiết lập xu hướng bình đẳng chủng tộc, thì cuối cùng Quốc
hội cũng sẽ theo. Xin xem xét án lệ. Atlanta Motel,
Inc kiện Chính phủ Hoa Kỳ, 379 US 241
(1964) (cấm phân biệt chủng tộc trong các phòng khách
sạn có chất lượng cao vì kỳ thị chủng tộc sẽ làm giảm số lượng khách
du lịch đi xuyên tiểu bang). Sau này, dựa theo “Điều khoản thương mại
xuyên bang” của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành các đạo luật “dân
quyền“ nhằm khắc phục và loại trừ vấn nạn kỳ thị chủng
tộc ở Mỹ. Những ”đạo
luật dân quyền” này đưa ra những quy định nhằm thực thi các
biện pháp bồi thường dân sự để chống việc chính phủ vi phạm quyền
Hiến pháp của dân.
[32] Nguyên tắc tiền
lệ trong thông luật là nguyên tắc bắt buộc tòa án phải căn cứ
vào khung luật của những án lệ đi trước để đưa ra quyết định pháp lý đúng
đắn. Nguyên tắc này là một tính năng quan trọng trong việc xét xử của
các tòa án phúc thẩm ở Mỹ. Trong việc thi hành Hiến pháp, nguyên
tắc tiền lệ không mạnh bằng án lệ của toà án tối cao liên bang, vì những
văn bản án lệ của Tòa án Tối cao không thể vượt qua chính
văn bản Hiến pháp. Chính Hiến pháp, chứ không phải thông
luật liên bang, mới có khả năng và tính chất tối cao. Tòa án Tối cao liên bang
cũng có thể tự đảo ngược quyết định trước của chính mình.
Vì thế, nguyên tắc tiền lệ có thể được chính toà án Tối cao thay đổi.
[33] Xem các vụ Duncan kiện
bang Louisiana, 391 U.S. 145, 149 (1968); Palkko kiện bang Connecticut,
302 U.S. 319, 325 (1937); Moore kiện bang East Cleveland, 431 U.S. 494
(1977).
[34] Cả hai Tu chính án thứ
5 và thứ 14 đều đề cập đến quyền tự do, cuộc
sống và tài sản của một ”con người”. Tuy nhiên, “Điều khoản
về Đặc quyền phúc lợi và miễn trừ”, thì giới hạn rõ ràng chỉ áp
dụng cho các công dân mà thôi.
[35] Ví dụ, trẻ em da
trắng và da đen phải được đối xử như nhau bởi vì tất
cả chúng đều là trẻ em. Xem vụ Brown kiện Board of Education,
347 US 483 (1954).
[38] Thí dụ, xem án lệ vụ New
York Times kiện the United States, 403 U.S. 713 (1971) (Tòa án Tối cao liên
bang từ chối yêu cầu của chính quyền Nixon cho công
khai tài liệu bí mật về chính sách của Mỹ tại Việt Nam).
[39] Các loại ngôn luận sau đây không được Hiến
pháp bảo vệ hoặc có thể bị chính phủ cấm đoán hoặc điều chỉnh:
(i) Mạ lỵ phỉ báng:
Ngôn luận không được sử dụng để mạ lỵ làm tổn thương người khác, và người nói sẽ phải chịu trách
nhiệm theo quy định của luật tiểu bang. Trường hợp ngoại lệ được áp
dụng cho báo chí: các phương tiện truyền thông có thể phát
biểu sai hay nói xấu công chức hoặc cá nhân nổi tiếng trong cộng
đồng về các vấn đề chung đang được công chúng quan tâm, miễn là các
cơ quan truyền thông báo chí không gian dối, hoặc không có “ác ý”. (“Ác ý là
một tiêu chuẩn pháp luật do Tòa án Tối cao liên bang đã quy định bằng án lệ).
Như thế, án lệ Hiến pháp đã thiết lập các tiêu chuẩn cho tự do báo chí. Bị
cáo, nạn nhân bị phỉ báng có thể đứng ra kiện các cơ quan truyền thông nếu các
cơ quan này làm trò ác ý, gây ra các vụ kiện phỉ báng dân sự bằng
cách đã phỉ báng nguyên đơn qua hành vi ác ý. Ở Tòa, các đương sự kiện tụng vấn đề phỉ báng phải
mang gánh nặng chứng minh rằng giới truyền thông có “ác ý”, bằng cách đưa ra
bằng chứng cụ thể về “ác ý” đó, dưới tiêu chuẩn bằng chứng “thật rõ ràng, minh
bạch” (đó là tiêu chuẩn bằng chứng cao nhất cho các nguyên đơn dân sự.) Xem án lệ vụ New York Times kiện
Sullivan, 376 US 254 (1964). Như thế, việc
kiện báo chí truyền thông ra tòa là rất khó. Báo chí cũng có thể tự bào chữa bằng cách
nói rằng mình không có ‘ác ý’ để bắt buộc nguyên đơn phải mang gánh nặng chứng
minh trước tòa. Lời bào chữa của
báo chí cho rằng mình không có ác ý cũng có thể áp dụng được vào các vụ án “xâm
phạm đời tư” hay “gây thiệt hại tinh thần” giống hệt như các vụ án dựa trên tội
“mạ lỵ và phỉ báng công
khai.”
(ii) Ngôn
ngữ tục tĩu khiêu dâm:
Hiến pháp không bảo vệ ngôn luận mang tính
chất khiêu dâm vì không có giá trị xã hội. Xem án lệ Roth, 354 US 476 (1957) (phán quyết rằng ngôn luận mang tính chất khiêu dâm nếu một người trung bình trong xã hội,
dùng tiêu chuẩn đạo đức của cộng đồng, cho rằng ngôn luận ấy chỉ nhằm mục đích
kích thích dâm tính của quần chúng mà thôi, chứ chẳng có giá trị gì khác). Gần đây, quyết định
của Tòa án Tối cao liên bang
đã xử lý các vấn đề ngôn luận khiêu
dâm trên mạng lưới Internet và vấn đề liên quan đến “lợi ích chung” của
quốc gia trong việc bảo vệ trẻ em chống lại các tài liệu mang
tính chất “khiêu dâm” này. Ví dụ, án lệ vụ việc liên quan đến Hiệp hội Thư
viện Hoa Kỳ, 2003 WL 21433656 (ủng hộ đạo luật liên
bang yêu cầu các thư viện công cộng cài đặt phần mềm
để chặn nội dung khiêu dâm không cho trẻ vị thành niên được xem).
(iii) Từ ngữ “đấm đá
khiêu chiến chọc giận quần chúng”
Đây là các từ ngữ thô bỉ nhằm mục đích nhục mạ người
nghe phải phản ứng bằng bạo lực gây ra tình trạng ẩu đả đánh nhau trong đám
đông), là một hình thức lạm dụng các tính ngữ khiêu chiến để kích động bạo lực,
không được Hiến pháp bảo vệ.
(iv) Ngôn luận “tạo ra một mối nguy hiểm rõ
ràng ở ngay thời điểm hiện tại“
(chẳng hạn, một người hét lên “lửa” trong
một đám đông và gây hoảng loạn cho quần chúng trong khi thực sự chẳng
có đám cháy nào hết).
(v)
Ngôn luận mang tính cổ võ cho bạo động hay khuyến khích
hành vi phạm pháp.
Xem vụ Brandenburg kiện bang Ohio, 395 U.S.
444, 447 (1969).
(vi) Một số loại ngôn
luận mang tính thương mại
Có thể vẫn bị chính quyền điều chỉnh và kiểm soát. Xem vụ Central
Hudson Gas & Electric Corp. kiện Public Service Commission,
447 U.S. 557 (1980).
[40] Quyền hiệp
hội không được viết trong Tu chính án thứ nhất qua các từ ngữ chính
xác như thế, nhưng cũng đã được Tòa án đọc vào nội dung của Tu chính
án này. Quyền du lịch hay tự do đi lại cũng đã được coi là một quyền cơ
bản, dựa trên sự kết hợp giữa các Điều khoản thương mại
xuyên bang, Điều khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ của công dân Mỹ (có
tính chất bất khả xâm phạm) trong Điều IV của Hiến pháp và Tu chính án thứ 14,
Điều khoản tiến trình xét xử theo luật pháp trong Tu chính án thứ 5 và thứ 14.
Tương tự, quyền riêng tư cững đã được đọc vào nội dung của
Hiến pháp, dù rằng không được quy định một cách rõ ràng trong văn bản mà là
thông qua Điều khoản tiến trình xét xử trong Tu chính án thứ 5 và thứ
14. Vấn đề quyền riêng tư sẽ xảy ra và Điều khoản tiến
trình xét xử theo luật pháp sẽ được dùng để ngăn chặn Chính phủ không được chen
vào đời sống riêng tư của cá nhân khi cá nhân không muốn tiết lộ thông tin về
gia đình, quyền tự do lựa chọn làm cha mẹ hay có con, sự toàn vẹn thân
thể của cá nha^n, nhân phẩm, và quyền tự chủ chính mình.
Ví dụ về quyền riêng
tư:
Phụ nữ có thai: Phụ nữ có quyền được bảo vệ bởi Hiến pháp khi
quyết định phá thai mà không bị luật liên bang hay tiểu ban kết án là tội phạm.
Xem vụ Roe kiện Wade, 410 US 113 (1973). Tuy nhiên,
Chính phủ không buộc phải trả chi phí phá thai cho phụ nữ, xem vụ Harris kiện McRae,
448 US 297 (1980);
Sự thân mật riêng tư: Không
tiểu bang nào được hợp pháp hóa việc Chính phủ hỗ trợ cho một đạo luật
hình sự cấm hai người trưởng thành có quan hệ tình dục tại nhà riêng của họ;
Quyền được chết: Một cá
nhân bị bệnh nặng xét thấy không thể phục hồi có quyền (được Hiến pháp bảo vệ) từ
chối điều trị y tế để nhanh chóng kết thúc sự sống. Tuy nhiên, nhà nước
có thể ban hành luật nghiêm cấm mọi người không được giúp đỡ một cá nhân tự tử
mà vẫn không vi phạm đến quyền tự do cơ bản – quyền muốn chết và được
chết -- của bệnh nhân…Xem vụ Washington kiện Gluckberg, 521
U.S. 702 (1997).
***
No comments:
Post a Comment
CONFIDENTIAL CONSULTATION WRITTEN REQUEST, FOR LAWYER'S EYES ONLY. PLEASE DO NOT PUBLISH YOUR COMMENTS.
TO MAINTAIN CONFIDENTIALITY, YOU MAY WANT TO MAIL YOUR COMMENTS TO THE MAILING ADDRESS LISTED ABOVE, OR EMAIL ME DIRECTLY, USING THE FORM BELOW.
FOR EMERGENCY REQUESTS, PLEASE CONTACT ME BY PHONE. YOUR PHONE CALL WILL BE RETURNED WITHIN 24 HOURS.
Name:
Address:
Phone Number:
email:
Fax:
Nature of Your Grievance/Dispute/Problem that needs to be resolved or for which you need legal representation (please summarize in fewer than 500 words)